Sơn cùng thuỷ tận nghi vô lộ, 山窮水盡疑無路,
Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn ! 柳暗花明又一村!
Bây giờ thì ta hãy đọc toàn bài thơ của bài Du Sơn Tây Thôn này nhé :
遊 山 西 村 Du Sơn Tây Thôn
莫 笑 農 家 臘 酒 渾, Mạc tiếu nông gia lạp tửu hồn,
豐 年 留 客 足 雞 豚。 Phong niên lưu khách túc kê đồn
山 重 水 復 疑 無 路, Sơn trùng thuỷ phục nghi vô lộ
柳 暗 花 明 又 一 村。 Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn
簫 鼓 追 隨 春 社 近, Tiêu cổ truy tuỳ xuân xã cận
衣 冠 簡 樸 古 風 存。 Y quan giản phác cổ phong tồn
從 今 若 許 閑 乘 月, Tòng kim nhược hứa nhàn thừa nguyệt
拄 杖 無 時 夜 叩 門。 Trụ trượng vô thì dạ khấu môn.
陸 游 Lục Du
CHÚ THÍCH :
* LẠP TỬU : Lạp là Tháng Mười Hai Âm Lịch, ta đọc trại thành Thánh CHẠP, nên Lạp Tửu là rượu của tháng Chạp, rượu được ủ để uống vào dịp Tết Âm Lịch.
* PHONG NIÊN 豐 年 : là Năm Được Mùa.
* KÊ ĐỒN : Kê là Gà, Đồn là Heo.
* XUÂN XÃ 春 社 : là Ngày Mậu Nhựt thứ 5 sau tiết Lập Xuân làm ngày XUÂN XÃ để cúng tế Thần Làng, như ta cúng Đình Làng vậy, để cầu cho sang năm lại được trúng mùa. Vì thế mà có thổi tiêu đánh trống ...
* 從 今 若 許 閑 乘 月 Tòng kim nhược hứa nhàn thừa nguyệt : là Từ nay về sau nếu như có rảnh rổi thì hay thừa lúc trăng sáng ...
* 拄 杖 無 時 夜 叩 門 Trụ trượng vô thì dạ khấu môn : là Hãy chống gậy mà đến gỏ cửa nhà ta bất cứ lúc nào trong đêm ( cũng hổng sao !). VÔ THÌ : là Bất cứ lúc nào.
NGHĨA BÀI THƠ :
Dạo Chơi Thôn Xóm Núi Tây
Xin đừng cười chê thứ rượu tế lễ không được trong của nhà nông trong tháng Chạp. Năm nay được mùa, nên giữ khách lại, đủ cả heo gà để đãi khách. Đừng vì núi liền với núi sông liền với sông mà ngỡ rằng đã không còn đường để đi tới, vì thấp thoáng trong bóng râm rặng liễu và khóm hoa tươi đẹp rực rỡ phía trước sẽ lại mở ra một thôn làng mới. Trống tiêu như giục giã vì ngày tế lễ đầu xuân đang gần kề. Áo mũ giản dị nhưng vẫn theo tục lệ cũ còn giữ lại. Từ nay về sau nếu như có rảnh rổi thì cứ thừa lúc trăng sáng ... Hãy chống gậy mà đến gỏ cửa nhà ta bất cứ lúc nào trong đêm ( cũng hổng sao, vì ta luôn luôn sẵn sàng đón tiếp ! )
Đây là cảnh nông dân ăn Tết ở Tây Thôn là một làng miền núi của một năm được mùa, chất phác chân thật mà nhiệt tình của đời sống thôn dã sau một năm cày sâu cuốc bẫm.
DIỄN NÔM :
DẠO NÚI XÓM TÂY
Thôn dã chớ cười rượu nhạt phèo,
Cuối năm đãi khách sẵn gà heo.
Núi liền sông nước ngờ vô lối,
Liễu rũ đường hoa đến xóm nghèo.
Tiêu trống rộn ràng Xuân Xã đến,
Áo xiêm giản dị cổ phong theo.
Từ nay nếu rảnh đêm trăng sáng,
Gỏ cửa cùng vui gậy khẳng kheo.
Lục bát :
Chớ cười rượu lễ nhạt phèo,
Được mùa đãi khách gà heo sẵn sàng.
Non liền nước ngỡ hết đàng,
Hoa chào liễu đón thôn làng lại sang.
Trống tiêu xuân xã rộn ràng,
Tục xưa áo mão nghiêm trang chỉnh tề.
Từ nay trăng sáng đi về,
Thăm nhau gỏ cửa chẳng nề đêm thâu.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Hẹn bài dịch tới !
Đỗ Chiêu Đức
Bài viết trên đây đã được Yên Bồ đọc và đưa lên YouTube Nov.18.2023
Lục Du 陸 游 (1125─1210), tự là Vụ Quan 務觀, hiệu là Phóng Ông 放翁, là nhà thơ rất nổi tiếng thời Nam Tống. Hoạn lộ thăng trầm, tình duyên trắc trở. Ông chủ trương kháng Kim đến cùng, chống đối lại với phái hòa Kim, vì thế mà bị bãi quan lúc mới có 42 tuổi, nên có nhiều bài thơ mang tâm trạng ưu thời mẫn thế như Đỗ Phủ hay tình cảm phóng túng lãng mạn như Lý Bạch. Ông có bài Từ "Vịnh Mai" rất sâu sắc, tỏ chí khí quật cường. Du Sơn Tây Thôn là một trong những bài thơ hay để đời của ông trong số 9300 bài vừa từ vừa thơ mà ông còn để lại.