蒞仁土女 Lỵ Nhân Thổ Nữ
高塘春近雨風寒, Cao đường xuân cận vũ phong hàn,
秦女燕姬笑語歡。 Tần nữ Yên cơ tiếu ngữ hoan,
溪上千紅芳思暖, Khê thượng thiên hồng phương tứ noãn,
遊蜂無意不相干。 Du phong vô ý bất tương can !
* Chú thích :
- Lỵ Nhân Thổ Nữ 蒞仁土女 : THỔ NỮ chỉ những người con gái ở một địa phương nào đó (cũng như THỔ SẢN 土產 chỉ Sản phẩm hay hàng hóa của riêng một nơi nào đó). Nên LỴ NHÂN THỔ NỮ chỉ những người con gái của đất Lỵ Nhân (LỴ NHÂN là huyện Lý Nhân, Hà Nam hiện nay).
- Cao Đường 高塘 : là Trên bờ đê cao cao.
- Tần Nữ Yên Cơ 秦女燕姬 : Chỉ các cô gái đẹp, lấy ý theo 4 câu cuối trong bài thơ "Cổ Ca 古歌" của Thẩm Thuyên Kỳ 沈佺期 đời Đường là :
燕姬綵帳芙蓉色, Yên cơ thái trướng phù dung sắc,
秦女金爐蘭麝香; Tần nữ kim lô lan xạ hương;
北斗七星橫夜半, Bắc đẩu thất tinh hoành dạ bán,
清歌一曲斷人腸. Thanh ca nhất khúc đoạn nhân trường.
Có nghĩa :
Tấm màn có hoa văn của cô gái nước Yên màu hoa phù dung, Chiếc lò vàng của cô gái nước Tần có mùi hương lan, xạ; Bảy ngôi của chòm sao Bắc Đẩu lúc nửa đêm đã nằm vắt ngang bầu trời. Một tiếng ca trong trẻo vút lên cao khiến người nghe như đứt từng khúc ruột.
- Khê Thượng 溪上 : Trên bờ khe suối.
- Phương Tứ Noãn 芳思暖 : Cái vẻ xuân thơm tho nồng ấm.
- Du Phong 遊蜂 : Chỉ Những con ong bay lượn nhởn nhơ.
- Bất Tương Can 不相干 : Không liên quan gì đến cả. Không màng đến.
* Nghĩa bài thơ :
Các Cô Gái Đất Lỵ Nhân
Mặc dù đã gần đến mùa xuân, nhưng trên bờ đê cao cao gió mưa xuân vẫn còn lành lạnh. Các cô gái đẹp như những Tần nữ Yên cơ đang cười nói vui vẻ. Trên khe suối muôn hồng ngàn tía tỏa ra cái dáng xuân thơm tho nồng ấm. Nhưng các con ong cứ bay nhởn nhơ như chẳng thèm chú ý gì đến cả !
LỴ NHÂN THỔ NỮ
Đê cao lành lạnh gió mưa xuân,
Tần nữ Yên cơ cười nói rân,
Khe suối muôn hồng ngàn tía ngát,
Ong kia bay lượn cứ như không !
Lục bát :
Chớm xuân mưa lạnh đê cao,
Yên cơ Tần nữ lao xao nói cười.
Hoa thơm khe suối khoe tươi,
Nhởn nhơ ong nọ vui chơi chẳng màng !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm