Cùng Bạn ,
Bây giờ trời đang vào thu , mới chớm Thu mà tiểu bang South Dakota Hoa Kỳ tuyết đã rơi . Tình cờ đọc hai bài Thu Dạ của Nguyễn Du , lòng tôi thấy nao nao cho tâm trạng của ông trong hoàn cảnh khốn đốn tản cư lánh nạn giữa thời ly loạn . Hai bài thơ nầy được trích trong Thanh Hiên Thi Tâp ( 78 bài ) nằm trong phần " Mười năm gió bụi" ( 1786-1795 )thời gian ông lẫn trốn ở Quỳnh Côi quê vợ thuộc Thái Bình. Hai bài thơ buồn thật ! Nhân đây xin Bạn lướt sơ lại ở phần dưới tiểu sử của cụ Tiên Điền để thấy cái bối cảnh lịch sử thời Lê-Trịnh -Tây Sơn -Nguyễn thời bấy giờ mà có lẽ phần lớn chúng ta đã quên mất . Xin cám ơn
Thân kính
Mailoc
Phồn tinh lịch lịch lộ như ngân ,
Đông bích hàn trùng bi cánh tân
Vạn lý thu thanh thôi lạc diêp ,
Nhất thiên hàn sắc tảo phù vân .
Lão lai bạch phát khả liên nhữ ,
Trú cửu thanh sơn dạ yếm nhân .
Tối thi thiên nhai quyện du khách ,
Cùng niên ngọa bệnh Tuế giang tân .
Sao đầy rõ mồn một , sương trắng như bạc
Vách phía đông ,dế lạnh kêu buồn thảm
Muôn dặm tiếng thu giục lá rụng
Bầu trời màu lạnh ngắt không một vần mây ,
Gìa rôi. làn tóc bạc này trông mà đáng thương
Ở mãi nơi đây núi xanh chưa chán người
Nhất là du khách bên trời đã mõi mệt
Suốt năm đau ốm nằm ở bến Tuế giang
Sương bàng bạc sao trời lấp lánh ,
Quanh tường đông dế lạnh sầu than .
Tiếng thu lá đổ dặm ngàn ,
Bầu trời lạnh ngắt trong ngần mây tan .
Thương nỗi mình mái đầu bạc trắng .
Núi xanh đây chưa chán chê người ,
Khách du thắm mệt bên trời ,
Cả năm nằm bệnh bên bờ Tuế giang .
Bạch lộ vi sương thu khí thâm ,
Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm .
Tiền đăng độc chiếu sơ trường dạ ,
Ác phát kinh hoài mạt nhật tâm .
Thiên lý giang sơn tần trướng vọng .
Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm .
Tảo hàn dĩ giác vô y khổ ,
Hà xứ không khuê thôi mộ châm .
Móc trắng thành sương , hơi thu đã già
Cây cỏ quanh thành bên sông đều có vẻ tiêu điều .
Một mình khêu ngọn đèn trong ,đêm bắt đầu dài .
Vắt tóc vẫn lo cho cái chí nguyện trong những ngày chót .
Non sông nghìn dặm nhìn mà buồn
Phong cảnh bốn mùa riêng mình ngậm ngùi
Mới rét mà đã thấy khổ vì không áo ,
Nơi đâu tiếng đập vải của người khuê phụ rộn rã trong bóng chiều .
Móc như sương hơi thu lạnh ngắt ,
Quanh thành sông xơ xác cỏ cây .
Đèn khêu độc chiếu đêm chầy ,
Ngổn ngang chí nguyện tháng ngày lo toan .
Núi sông xa dặm ngàn buồn ngóng , ,
Khói bốn mùa một bóng sầu mang .
Lạnh về không áo dao hàn ,
Tiếng chày khuê phụ chiều tàn giục mau .
Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau :
1. Bản chữ Hán Cổ của 2 Bài thơ :
繁星歷歷露如銀, Phồn tinh lịch lịch lộ như ngân,
東壁寒蟲悲更辛。 Đông bích hàn trùng bi cánh tân.
萬里秋聲催落葉, Vạn lí thu thanh thôi lạc diệp,
一天寒色掃浮雲。 Nhất thiên hàn sắc tảo phù vân.
老來白髮可憐汝, Lão lai bạch phát khả lân nhữ,
久住青山未厭人。 Cữu trú thanh sơn vị yếm nhân.
最是天涯倦遊客, Tối thị thiên nhai quyện du khách,
窮年臥病桂江津。 Cùng niên ngọa bệnh Quế giang tân
白露為霜秋氣深, Bạch lộ vi sương thu khí thâm,
江城草木共蕭森。 Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm.
剪燈獨照初長夜, Tiễn đăng đọc chiếu sơ trường dạ,
握髮經懷末日心。 Ốc phát kinh hoài mạt nhật tâm.
千里江山頻悵望, Thiên lí giang sơn tần trướng vọng,
四時煙景獨沉吟。 Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm.
早寒已覺無衣苦, Tảo hàn dĩ giác vô y khổ,
何處空閨催暮砧。 Hà xứ không khuê thôi mộ châm.
Đầy trời sao sáng trắng sương rơi,
Ra rả côn trùng dế khóc người.
Muôn dặm tiếng thu đưa lá rụng,
Một bầu sắc lạnh quét mây trời.
Thương ai tóc trắng già đeo đuổi,
Tiếc kẻ núi xanh ở mãi thôi.
Mõi gối chân trời thân lữ thứ,
Quanh năm ngọa bệnh Quế Giang trôi.
Móc trắng thành sương thu đã sâu,
Bên thành hoa cỏ cũng rầu rầu.
Chong đèn một bóng đêm vằng vặc,
Vắt tóc toàn tâm Ý những sầu.
Ngàn dặm núi sông hằng trông ngóng,
Bốn mùa cảnh trí gợi lo âu.
Khổ thay lạnh sớm chưa may áo,
Tiếng chày giặt tối vẳng đâu đâu !
- Tiễn đăng 剪燈 : Cắt hoa đèn để cho ngọn lửa cháy sáng. Có lẽ tác giả liên tưởng đến hai câu thơ của Lý Thương Ẩn:
"Hà đương cộng tiễn tây song chúc, 何當共剪西窗竹,
Khước thuyết Ba Sơn dạ vũ thì" 卻說巴山夜雨時?
(Bao giờ mới được cùng nhau cắt hoa đèn nơi song cửa phía tây, (để) Kể cho nhau nghe nỗi lòng nơi Ba Sơn lúc đêm mưa lạnh đây ? ).
- Ốc Phát 握髮 : Ốc 握 Có bộ THỦ là Tay bên trái, nên chỉ động tác của tay, có nghĩa là NẮM, như ỐC THỦ là Bắt Tay ( ta gọi là " Bonjuor " ). Chữ nầy còn được đọc là ÁC, nên Ốc Phát còn đọc là Ác phát:
Theo điển ỐC PHÁT THỔ BỘ 握髮吐哺 là viết gọn lại của câu : 一沐三握髮,一飯三吐哺 Nhất mộc tam ỐC PHÁT, Nhất phạn tam THỔ BỘ, có nghĩa : Một lần gội đầu phải vắt tóc lên 3 lần, Một lần ăn cơm phải nhả cơm ra 3 lần, nên " Ác phát thổ bộ" là vắt tóc nhả cơm: Do tích Chu Công là một đại thần của nhà Chu rất chăm lo việc nước. Đang ăn cơm, có khách đến nhả cơm ra tiếp; đang gội đầu có sĩ phu tới, liền vắt tóc ra đón, hết người này đến người khác, ba lần mới gội đầu xong, ba lần mới ăn cơm xong. Câu thơ của Nguyễn Du ý nói: Chí nguyện được đem ra giúp nước như Chu Công, cuối cùng không biết có toại nguyện hay chăng. Nghĩ đến lòng vô cùng lo ngại .