Chùa tọa lạc tại góc đường Hàm Nghi - Lê Thái Tổ, phường Lê Bình, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ. Chùa thờ ông Quan Công, ông Phước Đức và bà Thiên Hậu – theo hệ phái Hoa tông. Hiện nay, ông Lâm Quế Thạnh làm Hội trưởng Ban Quản trị chùa. Đây là một trong số ít các ngôi chùa Hoa có kiến trúc cổ xưa ở thành phố Cần Thơ.
Chùa Hiệp Thiên Cung được xem như một trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng và văn hoá cũng là nơi hội họp sinh hoạt tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau của nhân dân địa phương. Bà con trong khu vực không phân biệt người Hoa hay người Việt đều đến cúng viếng chùa, đóng góp nhiều tiền của để góp phần tổ chức các hoạt động lễ hội trong năm và tu bổ sơn sửa lại chùa.
Ngoài hoạt động tín ngưỡng, chùa còn tham gia nhiều hoạt động xã hội như: đóng góp để xây nhà tình thương, làm cầu sửa đường, cứu trợ thiên tai, lũ lụt...; tổ chức khám sức khỏe, cấp thuốc miễn phí, cho gạo người nghèo v.v...
Lịch sử
Chùa do nhóm người Hoa gốc Triều Châu xây dựng vào thế kỷ XIX. Đầu thế kỷ XIX, nhiều người Hoa từ Trung Quốc di dân sang Việt Nam để kiếm sống, trong số đó có một nhóm người gồm: Triều Châu, Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam và Sùng Chính (Hẹ) về làm ăn sinh sống tại vùng đất Cái Răng. Người Hoa ban đầu làm nghề nông và buôn bán nông sản, tạp hoá. Cộng đồng người Hoa lập nên ngôi miếu nhỏ thờ Quan Thánh Đế tại trung tâm chợ Cái Răng để cầu mong cho sản xuất được mùa, mua mau bán đắt, gia đạo bình an. Đồng thời, miếu cũng là nơi sinh hoạt, hội họp, tương thân tương ái, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau.
Năm 1856, bà con tu sửa, xây mới mở rộng và đặt tên 関公廟 - Quan Công Miếu. Đến năm 1904, miếu được trùng tu lại, và thờ thêm ông Phước Đức, bà Thiên Hậu, đồng thời đổi tên thành 合天宮 - Hiệp Thiên Cung. Năm 1945, Pháp trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Chiến tranh diễn ra ác liệt. Từ năm 1946, nhiều bà con người Hoa khu vực này đều phải di tản, ngôi chùa bị bỏ hoang. Năm 1954, hoà bình lập lại, bà con người Hoa trở về và cùng nhau tu tạo, sơn sửa lại. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, năm 1989, Ban quản trị chùa Hiệp Thiên Cung cho trùng tu toàn bộ ngôi Chùa cho đến ngày nay.
Ban đầu, chùa có Ban quản lý gồm những người đứng đầu 5 Bang hội của người Hoa. Đó là những người có uy tín, có khả năng tài chính. Họ luân phiên nhau làm Trưởng ban điều hành hằng năm - phụ trách quản lý về tài chính, và duy trì các tổ chức lễ hội của chùa. Hiện nay, tại Cái Răng không còn đủ 5 Bang hội như xưa. Bà con chọn những người có uy tín đề cử và bầu vào Ban quản trị chùa gồm 15 người - 1 Hội trưởng, 2 phó Hội trưởng, 1 chánh văn phòng kiêm tài chính, 2 thư ký (1 Việt, 1 Hoa) và 1 người phụ trách tổng vụ điều hành chung các hoạt động, lễ hội của chùa, những người còn lại đều là ủy viên của Ban. Nhiệm kỳ Ban quản trị là 5 năm.
Kiến trúc
Chùa Hiệp Thiên Cung - Ảnh: Hoàng Chí Hùng
Chùa được xây dựng theo lối kiến trúc mang đậm phong cách Trung Hoa: không có cổng, bố cục theo hình chữ 國 - Quốc, ở giữa có một khoảng sân rộng gọi là 天井 - Thiên tỉnh. Phần lớn, vật liệu xây dựng được đưa sang từ Trung Quốc. Trước cửa chùa, có treo hai lồng đèn rất to, bên trên có dòng chữ 風 調 雨 順 - Phong Điều Vũ Thuận nổi bật giữa khung cảnh núi sông. Bên trên cửa ra vào, có treo lơ lửng một chiếc thuyền rồng, cùng nhiều hình tượng các vị tiên, thần, thánh... Mặt tiền, được trang trí bởi nhiều bức hoạ về các đề tài truyền thống như: mai, lan, cúc, trúc...cùng các dòng chữ thể hiện những lời chúc tốt lành như: 春到人間 - Xuân Đáo Nhân Gian , 神 財 到 - Thần Tài Đáo.....
Chùa lợp ngói âm dương, đầu mái gắn ngói ống. Giữa đỉnh mái có phù điêu “Lưỡng long triều nguyệt”. Ở các viền mái, đắp nổi các hoạ tiết trang trí: Nhật, Nguyệt, hoa, lá, chim muông, đa càng làm tăng thêm nét cổ kính cho ngôi chùa. Hai cánh cửa chùa, có hình hai ông Thiện và Ác là biểu tượng cho sự trấn giữ, ngăn ngừa gian tà, bảo vệ điều thiện.
Chùa có tất cả 8 hàng cột lớn, cùng nhiều cột nhỏ. Hai cột lớn, được sơn son thếp vàng, các cột nhỏ, được sơn màu đỏ thẫm, chạm khắc rất nhiều hoa văn, biểu tượng theo truyền thống văn hóa Trung Hoa. Nhiều hoành phi, câu đối được viết bằng chữ Hán, với nội dung thể hiện khí khái của người quân tử, ước vọng an lành, quanh năm no ấm được treo theo các hàng cột.
Chánh điện thờ Quan công - vị thần tượng trưng cho sự trung, hiếu, tiết, nghĩa. Bên trên, là bức hoành phi viết bằng chữ Hán 汽 壯 山 河 - Khí Tráng Sơn Hà. Khánh thờ Quan Công, được chạm khắc rất tỉ mỉ, công phu với hình chim muông, trúc..., được sơn son thếp vàng thật lộng lẫy. Tượng Quan công, được đặt trong khánh thờ, có tượng Quan Bình và Châu Xương hai bên. Trên án thờ, ngoài bộ lư hương, nhang, đèn... còn có con ngựa Xích thố của ông. Ngoài ra, chùa còn thờ Thiên hậu Thánh mẫu và Tài Bạch Tinh quân cùng nhiều vị thần khác Hai bên gian chính điện, là hai hàng binh khí, như: xà mâu, đao, thương... tạo không khí uy nghiêm có công bảo vệ cuộc sống yên lành và phù hộ cho công việc làm ăn của con người được nhiều thuận lơi.
Lễ hội
- Lễ đón Giao thừa: thời gian tổ chức bắt đầu từ 0 giờ ngày mồng 1 Tết. Nghi lễ gồm: dâng sớ, đốt nhang, lên đèn; đánh 3 hồi chuông trống để đón mừng giao thừa. Lễ vật chính là hoa tươi - để cho bà con đến chiêm bái và hái lộc. Lễ đón giao thừa có ý nghĩa tiễn đưa năm cũ, chào đón năm mới, cầu mưa thuận, gió hoà, quốc thái dân an...
- Lễ họp mặt đầu năm: từ 8 giờ sáng mồng 2 Tết, nhằm tập hợp đông đủ bà con người Hoa trong tất cả các Ban đến chùa cùng vui Tết đón Xuân, chúc Thọ - chúc Tài lộc lẫn nhau và làm lễ cúng viếng Ông. Nghi lễ đơn giản hơn lễ đón giao thừa, chỉ dâng nhang, lên đèn. Sau đó, mọi người cùng nhau ăn bánh, kẹo, uống trà, cùng chúc mừng năm mới. Ban quản trị chùa trao tặng cho mọi người có mặt bao “lì xì” mừng tuổi.
- Lễ Nguyên tiêu hay còn gọi là tết Thượng Nguyên, được coi là ngày lễ thiêng liêng nhất đầu năm mới. Thời gian tổ chức bắt từ sáng ngày Rằm cho đến hết đêm Rằm tháng Giêng. Lễ Nguyên tiêu có ý nghĩa bắt đầu vào một năm mới và cầu cho gia đạo bình an, làm ăn phát đạt. Lễ Nguyên tiêu được tổ chức gồm hai phần Lễ và Hội.
+ Phần Lễ: đúng 9 giờ sáng ngày rằm, toàn Ban quản trị chùa tiến hành dâng sớ, thắp nhang, đèn cúng khai lễ. Sau đó bà con dân phố và trong khu vực ăn mặc đẹp đến thắp nhang viếng “Ông” trong suốt thời gian diễn ra lễ hội.
+ Phần Hội: Theo tập tục ngày này hằng năm, chùa tổ chức cho bà con vay “tiền” của “Ông” (vay phú) để làm vốn, làm giàu; vay “đại kiết” (trái quýt) cầu kiết tường; vay “kim huê” (mão giấy) cầu công danh; vay “nhang” cầu sung túc... Hiện nay chỉ còn lại tục cho vay “tiền”. Thời gian bắt đầu từ 7 giờ tối đêm Rằm tháng Giêng. Sau việc phát vay tiền, tiếp tục tổ chức đấu “Thánh đăng” (đèn lồng) – đấu Thánh đăng hình thức giống như đấu giá, tiền đấu được đem bổ sung vào công quỹ của chùa. Khoảng 9 giờ tối, lễ ngắm trăng, chiêm ngưỡng lồng đèn được tiến hành bằng các tổ chức hội thi đoán câu đố vui và giải câu đối. Các câu đố, câu đối được treo trên các lồng đèn trước sân chùa. Ai bắt và trả lời được câu đố hoặc giải được câu đối thì sẽ được quà thưởng.
- Lễ vía bà Thiên Hậu Thánh Mẫu: thời gian tổ chức trong ngày 23 tháng 3 âm lịch, chỉ tổ chức phần nghi lễ. Đúng 9 giờ sáng tiến hành dâng sớ, dâng nhang, lên đèn, đánh 3 hồi trống chuông cúng khai lễ. Vật lễ cúng (không thể thiếu) gồm: heo quay, bánh bao, bánh hồng đào, mâm ngũ quả, hoa tươi, trà, rượu, nhang, đèn cầy.
- Lễ vía Ông: là lễ lớn nhất trong năm, tổ chức trong 3 ngày, từ 12 đến 14 tháng 5 âm lịch, trong đó ngày 13 là ngày lễ vía chính.
+ Phần Lễ: đúng 9 giờ sáng tiến hành dâng sớ, dâng nhang, lên đèn, đánh 3 hồi trống chuông cúng khai lễ. Tiếp theo, mở nhạc hoà tấu để kết thúc phần nghi lễ. Lễ vật cúng gồm: heo quay (nguyên con), bánh bao (không nhân), bánh hồng đào (trường thọ), mâm quýt (đại kiết), hoa tươi... được bày trang trọng trên bàn ở giữa gian thứ 5. Điểm đặc biệt lưu ý, trong ngày lễ này tuyệt đối không được cúng thịt gà, thịt bò.
+ Phần Hội: chùa rước đoàn hát Triều Châu (hát Tiều) về biểu diễn. Đoàn hát hát cả ngày lẫn đêm cúng “Ông” và cho bà con trong khu phố xem. Đồng thời tạo bầu không khí vui tươi phấn khởi trong ngày lễ vía. Buổi hát bắt đầu từ sáng ngày 12 đến hết ngày 14 tháng 5.
- Lễ Vu lan: tổ chức vào ngày Rằm tháng 7 âm lịch. Thời gian khai lễ bắt đầu từ 7 giờ tối ngày 16 cho đến chiều ngày 17 tháng 7 âm lịch, chỉ tổ chức phần Lễ. Trước cửa chùa dựng cặp phướn cao 3 m (một đỏ bên phải, một xanh bên trái theo hướng từ ngoài nhìn vào). Bên trong chùa, lập thêm nhiều bàn thờ: bàn thờ Phật, bàn thờ ông Tiêu, ông Hộ, thờ quá cố tiền nhân – bá tánh, thờ chiến sĩ trận vong, thờ thập phương cô hồn. Đúng 7 giờ tối ngày 16 âm lịch tiến hành khai lễ. Sau phần dâng sớ, dâng nhang đèn và 3 hồi trống chuông, mời Pháp sư tụng kinh cầu siêu, cầu an cho đến 10 giờ kết thúc. Đúng 9 giờ sáng ngày 17 cử hành lễ chính. Pháp sư tiến hành tụng kinh lần thứ 2 cho đến giờ Ngọ - và làm lễ phóng tiêu, kết thúc phần kinh tụng. Sau lễ phóng tiêu, Ban quản trị chùa cho tổ chức “thí giàn” trước sân chùa, kết thúc buổi lễ.
- Lễ Trùng quang: tổ chức vào ngày mồng 10 tháng 11 âm lịch. Thời gian tổ chức bắt đầu từ 9 giờ sáng và kết thúc vào buổi trưa cùng ngày. Lễ vật cúng cũng giống ngày lễ vía.
- Lễ cúng bình yên, nội dung là để đáp tạ thần ân đã phò giúp một năm làm ăn phát đạt. Thời gian không ấn định, nhưng phải tổ chức trước ngày 23 tháng chạp âm lịch. Chỉ tổ chức phần lễ và nghi lễ, vật cúng cũng giống các ngày lễ khác trong năm, kết thúc buổi lễ có mở thêm nhạc hòa tấu. Thời gian bắt đầu cũng từ 9 giờ sáng và kết thúc vào buổi trưa cùng ngày.