長安城懷古 TRƯỜNG AN THÀNH HOÀI CỔ
木落禾凋帝業移, Mộc lạc hòa điêu đế nghiệp di,
李家收得版圖歸。 Lý gia thâu đắc bản đồ quy.
山圍故國規模小, Sơn vi cố quốc quy mô tiểu,
竹暗荒城草木非。 Trúc ám hoang thành thảo mộc phi.
古寺僧鍾敲落日, Cổ tự tăng chung xao lạc nhựt,
斷溪牛笛弄斜暉。 Đoạn khê ngưu địch lộng tà huy.
英雄舊事無尋處, Anh hùng cựu sự vô tầm xứ,
獨倚江亭看翠微。 Độc ỷ giang đình khán thúy vi.
阮忠彥 Nguyễn Trung Ngạn
* Chú Thích :
- Trường An 長安 : là Trường kỳ bình an 長期平安, là Bình an dài lâu, từ dùng để đặt tên cho kinh đô từ đời nhà Hán, trải qua 13 triều đại sau đó đều gọi kinh đô là Trường An, cho đến đời nhà Minh mới đổi tên thành Tây An cho đến hiện nay. Trong lịch sử Việt Nam ta cũng gọi Thăng Long thành là Trường An.
- Mộc Lạc Hòa Điêu 木落禾凋 : Cây rụng lá, lúa rơm tàn tạ; chỉ cảnh hoang tàn buổi cuối thu, cảnh tiêu điêu hoang phế của di tích bị bỏ hoang. Bốn chữ đầu câu 1, lẽ ra có thể nói đơn giản là THẢO MỘC ĐIÊU LINH 草木凋零 (Cỏ cây tàn tạ), nhưng lại được nói cầu kỳ là MỘC LẠC HÒA ĐIÊU, phải chăng cụ Nguyễn Trung Ngạn muốn nhắc cho ta nhớ lại bài sấm cây gạo của Sư Vạn Hạnh làm ra để hợp thức hóa cho Lý Thái Tổ Lý Công Uẩn lên ngôi, trong đó có 2 câu chính là :
...禾刀木落 Hòa đao mộc lạc,
十八子成... Thập bát tử thành.
Có nghĩa :
- 禾 Hòa 刀 Đao 木 Mộc : ghép ba chữ này lại với nhau thành chữ 梨 LÊ, đồng âm với chữ LÊ là họ LÊ 黎; LẠC là rơi rụng; chỉ Nhà LÊ mất.
- 十 Thập 八 Bát 子 Tử : ghép ba chữ này lại với nhau thành chữ 李 LÝ; THÀNH là Thành lập, chỉ nhà LÝ sẽ được thành lập nên.
- Lý Gia 李家 : Nhà họ Lý, ở đây chỉ triều đại của Lý Thái Tổ 李太祖, tên thật là Lý Công Uẩn 李公蘊, là vị hoàng đế lập ra nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, ông trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời vào năm 1028.
- Tăng Chung 僧鍾 : Tiếng chuông do các nhà sư dộng lên ở trên chùa.
- Ngưu Địch 牛笛 : Tiếng sáo của những đứa trẻ chăn trâu.
- Giang Đình 江亭 : Cái đình cất ở ven sông.
- Thúy Vi 翠微 : Tên của một loại hoa Lan; đồng thời THÚY VI cũng có nghĩa là cảnh vật xanh tươi của núi sông, hay chỉ cây cỏ xanh tươi rậm rạp.
* Nghĩa bài thơ :
TRƯỜNG AN THÀNH HOÀI CỔ
Cây rụng lá, cỏ rơm tàn tạ héo úa, cảnh vật hoang tàn khi cơ nghiệp của đế vương đã vời đi nơi khác, Nhà họ Lý đã thâu tóm được bản đồ của giang san nầy về một mối. Những dãy núi vây quanh nước cũ quy mô như bị nhỏ lại; những rừng trúc dại che mờ cả thành trì bị bỏ hoang, cây cỏ như chẳng biết gì. Tiếng chuông chùa cổ ngân lên trong ánh nắng tà huy và tiếng sáo của trẻ mục đồng cũng véo von trong buổi chiều tà. Chuyện hào hùng xưa của các anh hùng giờ biết tìm nơi đâu ? Ta chỉ còn một mình dựa vào cái đình bên sông nầy mà ngắm cảnh vẫn xanh tươi của núi non cây cỏ mà thôi !
Đọc bài thơ nầy làm cho ta nhớ đến bài "Thăng Long Thành Hoài Cổ" của Bà Huyện Thanh Quan với :
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
và thật cảm khái với :
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương !
Cảnh hoài cổ nào mà chẳng buồn, chẳng làm xúc động lòng người !?
* Diễn Nôm :
TRƯỜNG AN THÀNH HOÀI CỔ
Cỏ cây tàn úa nghiệp vua dời,
Nhà Lý gồm thâu hết mọi nơi.
Núi phủ nước xưa quy mô nhỏ,
Trúc che thành cũ cỏ cây phơi.
Chuông ngân cổ tự chiều nghiêng bóng,
Sáo vẳng mục đồng nắng xế lơi.
Sự nghiệp anh hùng đâu thấy nữa,
Tựa đình lặng ngắm núi mây trôi !...
Lục bát :
Vua dời cây cỏ tàn phai,
Gom về họ Lý đất đai một nhà.
Núi vây cố quốc quanh ta,
Thành hoang trúc phủ la đà cỏ cây.
Chuông chùa cổ vẳng đâu đây,
Mục đồng sáo trúc hây hây nắng chiều.
Anh hùng chuyện cũ buồn thiu,
Tựa đình nước ngắm non chiều xanh xanh !
Đỗ Chiêu Đức