LƯU VŨ TÍCH 劉禹錫 (772-842), tự là Mộng Đắc, người đất Lạc Dương Hà Nam, tổ tiên từ Định Châu Hà Bắc di dời xuống miền nam. Ông là thi nhân nổi tiếng và tiêu biểu của đời Trung Đường, được đời sau xưng tụng là Thi Hào với các tính chất hào phóng trong thi ca, ngoài ra, ông còn nổi tiếng với các bài tản văn, như bài "Lậu Thất Minh 陋室銘" với các câu văn bất hủ như :
Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh; 山不在高,有仙則名;
Thủy bất tại thâm, hữu long tắc linh. 水不在深,有龍則靈。
Tư thị lậu thất, duy ngô đức hinh.... 斯是陋室,惟吾德馨...
Có nghĩa :
Núi chẳng tại cao, có tiên thì nổi tiếng;
Nước chẳng tại sâu, có rồng thì linh thiêng.
Đây chỉ là căn nhà thô lậu, nhưng được thơm lên vì cái đức của ta...
Xanh xanh dương liễu ven sông,
Tiếng chàng lảnh lót khiến lòng xuyến xao.
Đông nắng chiếu, Tây mưa rào...
Bảo vô tình đấy, biết bao là tình !
Bài thơ rất nên thơ với những câu hò giọng hát bên sông của đôi trai gái đương tơ, vừa xử dụng được từ đồng âm "TÌNH 晴 là Nắng ráo" và "TÌNH 情 là Tình yêu" với hai câu thơ cuối : Đông nắng chiếu, Tây mưa rào...Bảo là không có nắng nhưng có nắng, bảo là vô tình nhưng lại rất hữu tình !
Năm Nguyên Hòa thứ chín (815), Lưu Vũ Tích cùng Liễu Tông Nguyên đều được triệu hồi Trường An chờ phục chức. Thấy cảnh bát nháo của chính sự lúc bấy giờ, nhân dạo chơi ở Huyền Đô Quán, một đạo quán nổi tiếng của các đạo sĩ ở kinh thành, ông đã làm bài "Nguyên Hòa Thập Niên Tự Lãng Châu Thừa Chiếu Chí Kinh Hí Tặng Khán Hoa Chư Quân Tử 元和十年自朗州承召至京戲贈看花諸君子". Có nghĩa : Năm Nguyên Hòa thứ mười phụng chiếu từ Lãng Châu về kinh thành, đùa tặng các bậc quân tử đi xem hoa. (Bài thơ nầy còn có tên đơn giản là "Huyền Đô Quán Đào Hoa 玄都觀桃花" là Hoa đào ở Huyền Đô Quán) như sau :
紫陌紅塵拂面來, Tử mạch hồng trần phất diện lai,
無人不道看花回。 Vô nhân bất đạo khán hoa hồi.
玄都觀裏桃千樹, Huyền Đô Quán lý đào thiên thọ,
盡是劉郎去後栽。 Tận thị Lưu Lang khứ hậu tài.
Có nghĩa :
Ngổn ngang đường xá bụi nhòa,
Kháo nhau cùng đến ngắm hoa chốn này.
Huyền Đô ngàn cội đào khai,
Đều trồng từ lúc đi đày chàng Lưu
Ý của Lưu là mỉa mai cái đám người quyền qúy mới, do a dua nịnh hót mà có được. Bọn người nầy đã vênh váo đi lại khắp đường phố Trường An làm ra vẻ thanh cao như những người đi ngắm hoa về. Nếu chàng Lưu ta còn ở đây thì chưa chắc bọn nầy đã hiện diện mà nghênh ngang đi lại. Ý của Lưu Vũ Tích có hơi trịch thượng và xem thường những người quyền thế mới nầy, nên chi chẳng bao lâu sau, ông lại bị biếm đi làm Thứ Sử Ba Châu.
Sau nhờ Ngự Sử Trung Thừa Bùi Độ tâu với vua vì Lưu Vũ Tích còn mẹ già, nên được thuyên về là Thứ Sử Liên Châu. Thời gian này vì tâm trạng buồn khổ cực độ nên Lưu hay đi lại các chùa chiền và cùng nghiên cứu Phật pháp với các nhà sư. Năm Nguyên Hòa thứ 14, mẹ mất, phải về Lạc Dương thọ tang. Đường Mục Tông Trường Khánh nguyên niên (821) lại thuyên làm Thứ Sử Qùy Châu. Năm Trường Khánh thứ 4 đổi về làm Thứ Sử Hòa Châu. Mùa xuân năm Bảo lịch thứ 2 đời Đường Kính Tông (826) lại được triệu về Lạc Dương. Năm Đại Hòa thứ 2 đời Đường Văn Tông(828)Mười bốn năn sau, một lần nữa ghé thăm lại Huyền Đô Quán, lại làm bài "Tái Du Huyền Đô Quán 再游玄都觀" để châm biếm và cười cợt những kẻ quyền qúy đã hết thời :
百畝庭中半是苔, Bách mẫu đình trung bán thị đài,
桃花淨盡菜花開。 Đào hoa tịnh tận thái hoa khai.
種桃道士歸何處, Chủng đào đạo sĩ quy hà xứ ?
前度劉郎今又來。 Tiền độ Lưu Lang kim hựu lai
Có nghĩa :
Trong sân nửa mẫu rêu nhòa,
Đào thì rụng sạch cải đà nở hoa.
Trồng đào đạo sĩ đâu ta ?
Chàng Lưu ngày trước lại qua chốn nầy
Hoạn lộ thăng trầm, trải qua nhiều tang thương biến đổi, chẳng những cảm khái cho quan trường chìm nổi của mình, Lưu Vũ Tích còn cảm khái cho nhân sinh ngắn ngủi, thịnh suy vô chừng, vinh hoa phú qúy rồi cũng đến lúc suy tàn như cụ Nguyễn Công Trứ nhà ta đã viết trong HÀN NHO PHONG VỊ PHÚ :"Giàu ai bằng Vương Khải Thạch Sùng, cũng có lúc tường xiêu ngói đổ". Cũng cùng một ý như thế mời đọc bài Ô Y HẠNG của Lưu Vũ Tích sau đây :
朱雀橋邊野草花, Chu Tước kiều biên dã thảo hoa,
烏衣巷口夕陽斜。 Ô Y Hạng khẩu tịch dương tà.
舊時王謝堂前燕, Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến,
飛入尋常百姓家。 Phi nhập tầm thường bách tính gia !
* Ô Y HẠNG 烏衣巷 : Ô là Màu đen, Y là Áo, Hạng là Con Hẽm. Ô Y Hạng là Con hẽm áo đen. Có tích như sau :
Ô Y Hạng là một con hẽm của TP Nam Kinh nằm ở phía nam của sông Tần Hoài, con hẽm nầy có từ đời Tam Quốc, thuộc nước Đông Ngô, nơi độì Cấm quân Áo Đen trú đóng mà thành tên. (Một điều thú vị mà văn nhân thi sĩ không biết tới, đội Cấm quân Áo Đen chính là đội Thuỷ quân Người Nhái được huấn luyện bên bờ sông Tần Hoài và Trường Giang chuyên đục lủng thuyền của quân địch. Chiếu theo ngũ hành, Thuỷ thuộc màu Đen, nên đội Người Nhái nầy toàn mặc quân phục màu đen là vì thế !).
Sau, vào đời Đông Tấn, là nơi ở của 2 danh gia vọng tộc Vương Đạo và Tạ An. Gia nhân, ngưòi ăn kẻ ở của 2 nhà nầy đều mặc đồ đen, ra vào nườm nượp trong con hẽm nầy, nên Ô Y Hạng càng nổi tiếng " Ô Y " hơn. Con em của 2 nhà nầy được gọi là " Ô Y Lang ", có nghĩa là : Các Chàng của hẽm Áo Đen ( Ý chỉ là con em của hẽm nhà giàu, chớ chưa chắc là họ thích mặc màu đen đâu !). Nhưng đến đời Đường thì Ô Y Hạng bị bỏ phế, và cho đến hiện nay, thì ....Ô Y Hạng là khu tập trung sản xuất công nghệ phẩm của dân gian.
CHU TƯỚC KIỀU 朱雀橋 : CHU là Màu đỏ, TƯỚC là Chim sẻ, KIỀU là Cầu. CHU TƯỚC KIỀU là Cây cầu bắt ngang sông Tần Hoài qua Thành phố Nam Kinh đưa đến Ô Y Hạng, giữa cầu có lầu canh được trang trí bằng 2 con chim sẻ bằng đồng là kiến trúc của Tạ An xây nên.
DÃ THẢO HOA : DÃ 野 là Hoang dã. DÃ THẢO HOA là Hoa cỏ mọc một cách hoang dã, không được trồng trot, chăm sóc đàng hoàng.
NGHĨA BÀI THƠ :
Bên cầu Chu Tước ( lẽ ra rất phồn vinh tấp nập người qua kẻ lại, thì nay...) cỏ hoang hoa dại phủ đầy, và ở đầu con hẽm Ô Y ( không còn nườm nượp gia nhân ra vào như xưa, mà nay ...) chỉ thấy nắng chiều nghiêng nghiêng buồn bã. Những con én ngày xưa chít chiu ríu rít trên rường nhà cuả Vương Đạo và Tạ An, nay đã bay hết ra nhà của bá tánh thường dân rồi !
Chim én là biểu tượng của mùa xuân, của ấm êm hạnh phúc. Theo tập tính thì chim én chỉ làm tổ trên những rường nhà có người ở, còn nhà bỏ hoang thì chim én cũng... bay luôn !
Lưu Vũ Tích đã khéo dùng hình ảnh hoang dại cuả cỏ hoa, cái nghiêng nghiêng sắp tắt của nắng chiều, và sự vắng lặng trơ vơ không một bóng chim lai vãng để gợi nên sự tiêu điều hoang phế của các danh gia vọng tộc đã từng vang bóng một thời, nay thì ..." thời oanh liệt nay còn đâu !!!"
Qủa là một bài thơ hoài cổ não lòng, làm ta chợt nhớ đến 4 câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan :
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương !
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương !!!
Cụ Nguyễn Du cũng đã mượn hình ảnh của chim én bỏ đi để tả cảnh suy sụp của gia đình Vương Viên Ngoại khi Kim Trọng trở lại vườn Thúy để tìm cô Kiều :
Xập xòe én liệng ngõ không,
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày
Cách tường gai góc mọc đầy,
Đi về nầy những lối nầy năm xưa...
2. DIỄN NÔM :
HẼM Ô Y
Bên cầu Chu Tước cỏ hoa hoang,
Trước hẽm Ô Y ánh nắng tàn.
Chim én trên rường Vương Tạ trước,
Nay đà bay hết đến dân gian !
Lục bát :
Cỏ hoang hoa dại bên cầu,
Chiều nghiêng nắng xế thêm sầu Ô Y.
Én xưa cũng hết rù rì,
Bỏ nhà Vương Tạ bay đi dân thường !
Song thất lục bát :
Xót hoa dại bên cầu Chu Tước,
Hạng Ô Y lướt thướt nắng tà.
Én nhà Vương Tạ lân la,
Đã bay hết đến vào nhà thường dân.
Xin được kết thúc bài viết về THI HÀO Lưu Vũ Tích với bài thơ Ô Y HẠNG nổi tiếng về cảnh tang thương biến đổi đã nêu trên.
Đỗ Chiêu Đức