1. Bản chữ Hán Cổ của NAM HÀNH BIỆT ĐỆ
南行別弟 NAM HÀNH BIỆT ĐỆ
韋承慶 Vi Thừa Khánh
淡淡長江水, Đạm đạm Trường giang thủy,
悠悠遠客情。 Du du viễn khách tình.
落花相與恨, Lạc hoa tương dữ hận,
到地一無聲。 Đáo địa nhất vô thinh !
韋承慶(640年-706年12月28日),字延休,唐朝鄭州陽武(河南原陽縣)人。父为宰相韦思谦。
VI THỪA KHÁNH ( 640-706 ngà 28 tháng 12 ), tự là Diên Hưu, người đất Dương Võ, Trịnh Châu đời Đường ( thuộc Huyện NguYên Dương, tỉnh Hà Nam hiện na ). Cha là Tể Tướng VI TƯ KHIÊM.
NGHĨA BÀI THƠ :
TỪ GIẢ EM TRAI ĐI VỀ MIỀN NAM
Nước sông Trường Giang lửng lờ nhạt nhẻo trôi một cách vô vị ( đạm đạm ), cũng như cái tình của kẻ xa quê hương dài dằng dặc và dai dẵng kia ( du du ). Cánh hoa rụng cũng tựa như cái hận sầu của kẻ xa quê, âm thầm rơi trên mặt đất mà chẳng buồn gây nên một tiếng động nào cả !
Ví hoa rụng như lòng kẻ lưu vong, oán hận mà âm thầm không bày tỏ cùng ai được !
DIỄN NÔM :
Lơ lửng nước Trường Giang,
Mênh mang tình viễn khách.
Hoa rụng hận chứa chan,
Im lìm không oán trách !
Lục bát :
Lửng lơ giòng nước Trường Giang,
Như tình viễn khách mênh mang bời bời.
Hận cùng như cánh hoa rơi,
Âm thầm trên mặt đất rồi lặng yên !