LÝ QUẦN NGỌC ( Khoảng 813-860 ). Thi nhân đời Đường. Tự là Văn Sơn. Người đất Phong Châu ( thuộc Phong Huyện tỉnh Hồ Nam hiện nay ). Tánh tình đạm bạc, mấy lần thi Tiến Sĩ không đậu , bèn thôi. Ông rất được Quan Sát Sứ Hồ Nam là Bùi Hưu xem trọng. Năm Đại Trung thứ 8 ( 854 ) khi đến Trường An, ông có dâng lên Vua 300 bài thơ, lúc bấy giờ Bùi Hưu là Tể Tướng nên tiến cử ông làm Hoằng Văn Quán Hiệu Thư Lang. Ít lâu sau, ông từ quan về quê. Trứ tác LÝ QUẦN NGỌC THI TẬP 3 quyển, hậu tập 5 quyển.
Sau đây, xin mời đọc một trong những bài thơ Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt nổi tiếng của ông...
寄韋秀才 KÝ VI TÚ TÀI
荊台蘭渚客, Kinh Đài Lan Chữ khách,
寥落共含情。 Liêu lạc cộng hàm tình.
空館相思夜, Không quán tương tư dạ,
孤燈照雨聲。 Cô đăng chiếu ũ thinh !
李群玉 Lý Quần Ngọc
CHÚ THÍCH :
KINH ĐÀI 荊台 : Tên một đài cao nổi tiếng của Nước Sở.
LAN CHỬ 蘭渚 : Tên sông ở huyện Lan Đình, tỉnh Chiết Giang. Đời Tấn, nhà thư pháp Vương Hi Chi cất nhà mát trên sông Lan Chử, gọi là Lan Đình để cùng bạn bè ngâm vịnh. Vương làm bài tựa Lan Đình, chữ rất tốt. Đời sau gọi là THIẾP LAN ĐÌNH. Trong TRUYỆN KIỀU Hoạn Thư đã khen cô Kiều viết chữ đẹp khi cho Kiều ra QUAN ÂM CÁC chép kinh :
Khen rằng bút pháp đã tinh
So vào với THIẾP LAN ĐÌNH nào thua !
Còn LAN CHỬ ở đây có ý nói là bạn văn chương cùng học tập với nhau.
DỊCH NGHĨA :
GỞI TÚ TÀI HỌ VI
Ở Kinh Đài nổi tiếng của nước Sở nầy, ta cũng là khách tha hương của Lan Chử cùng ngâm vịnh học hành. Khi lưu lạc chia tay cùng ngậm ngùi biết bao tình ý. Đêm nay, ta nhớ người trong quán vắng, một ngọn đèn nhỏ cô đơn chiếu hiu hắt trong tiếng mưa rơi rả rít.
DIỄN NÔM :
Đất Kinh Đài làm khách,
Lưu lạc có nhớ nhau ?
Tương tư đêm quán vắng,
Đèn côi chiếu mưa rào !
Lục Bát :
Kinh Đài học tập cùng nhau,
Chia tay lưu lạc nao nao hàm tình.
Tương tư quán vắng đêm thanh,
Đèn côi vàng vọt, mưa lành lạnh rơi !