A. Bản tiếng Hán cổ của bàì thơ :
夏日南亭懷辛大
山光忽西落,池月漸東上。
散髮乘夕涼,開軒臥閑敞。
荷風送香氣,竹露滴清響。
欲取鳴琴彈,恨無知音賞。
感此懷故人,中宵勞夢想。
Sơn quang hốt tây lạc, Trì nguyệt tiệm đông thướng.
Tán phát thừa tịch lương, Khai hiên ngọa nhàn sưởng.
Hà phong tống hương khí, Trúc lộ trích thanh hưởng.
Dục thủ minh cầm đàn, Hận vô tri âm thưởng.
Cảm thử hoài cố nhân, Trung tiêu lao mộng tưởng.
B. Nghĩa Bài Thơ :
NGÀY HÈ NHỚ TÂN ĐẠI Ở NAM ĐÌNH
Ánh nắng chiều chợt dần tắt ở phía trời tây, vầng trăng trên ao nước dần dần mọc lên ở phía trời đông. Ta xỏa tóc ra mà hóng cái mát của buổi chiều, mở cửa sổ dưới mái hiên ra mà nằm nhàn tản thảnh thơi. Gió đưa mùi hoa sen nhè nhẹ thoang thoảng, tiếng sương nhẹ nhàng rơi từ những lá trúc bên hè. Ta rất muốn lấy đàn mà dạo một khúc, chỉ hiềm vì không có tri âm để cùng thưởng thức. Vì vậy mà ta rất nhớ đến cố nhân( chỉ Tân Đại ), nên suốt đêm vẫn hằng mơ tưởng !
C. Bản dịch Lục Bát :
NGÀY HÈ NHỚ TÂN ĐẠI Ở NAM ĐÌNH
Nắng chiều rơi rụng trời tây,
Trăng dần ló dạng cuối ngày non đông.
Chiều tàn xỏa tóc gió hong,
Nương theo hơi mát ta nằm thảnh thơi.
Hương sen tỏa ngát khí trời,
Nhẹ nhàng lá trúc sương rơi mơ hồ.
Ôm cầm toan gãy khúc thơ,
Tri âm ai đó đôi bờ nên thôi !
Cố nhân cách trở xa rồi,
Nhớ nhau đêm vắng bồi hồi niềm tây !