" MỘ QUY " 《暮歸》 chính là thơ Ngô Thể được Đỗ Phủ làm khi đang ở Hồ Bắc .
暮歸 MỘ QUY
杜甫 Đỗ Phủ.
霜黄碧梧白鶴棲, Sương hoàng bích ngô bạch hạc thê,
城上擊柝複烏啼。 Thành thượng kích thác phục ô đề.
客子入門月皎皎, Khách tử nhập môn nguyệt giảo giảo,
誰家搗練風淒淒。 Thùy gia đão luyện phong thê thê.
南渡桂水闕舟楫, Nam độ Quế Thủy khuyết chu tiếp,
北歸秦川多鼓鼙。 Bắc quy Tần Xuyên đa cổ bề.
年過半百不稱意, Niên quá bán bách bất xứng ý,
明日看雲還杖藜。 Minh nhựt khan vân hoàn trượng lê.
Chú Thích :
Hoàng : Còn đọc là HUỲNH, màu vàng, ở đây là Động Từ, nên có nghĩa là Làm Cho Vàng, Nhuộm Vàng.
Thác : là Cái Mõ Canh, nên Kích Thác : Gõ Mõ Canh .
Nguyệt Giảo Giảo : là Trăng sáng vằng vặc.
Đão Luyện : Dùng chày để đập cho tơ mềm ra để giặt cho thành lụa, chuẩn bị may áo mùa đông.
Phong Thê Thê : Gió hắt hiu.
Tiếp : là Mái Chèo. Khuyết Chu Tiếp : là Thiếu Mái Chèo của Thuyền. Không phải là thuyền không có mái chèo, mà là không có TIỀN để thuê một thuyền chèo.
Cổ Bề : là Trống trận. Đa Cổ Bề : Nhiều trống trận. Có nghĩa : Có nhiều trận đánh nhau với quân Thổ Phồn.
Trượng Lê : Chống gậy Lê. Lê là một loại thảo mộc, có thân cứng và dẽo như Cây Mây, nên dùng làm gậy cho chắc và nhẹ.
Dịch Nghĩa :
CHIỀU VỀ ( Nhà Trọ )
Bạch Hạc đậu trên cành ngô đồng đã vàng lá vì sương thu lạnh lẽo, trên thành tiếng mõ đã bắt đầu điểm canh lẫn với tiếng quạ kêu sương. Khách trở về nhà trọ, vào cửa trong lúc ánh trăng đã vằng vặc ngoài trời, trong khi đó tiếng chày giặc lụa của nhà ai còn vang vang trong gió thu hiu hắt. Ta muốn xuôi Nam qua dòng Quế Thủy nhưng lại không đủ sức thuê thuyền, muốn trở về đất Bắc ở Tần Xuyên thì giặc giã chiến tranh, trống trận nổi lên liên miên không dứt. Quá nửa đời người không có chuyện gì xứng ý toại lòng cả ! Thôi thì, ngày mai lại phải chống gậy mà ngắm mây trời xa xa để thương nhớ về cố hương mà thôi !
Diễn Nôm :
CHIỀU VỀ
Hạc trắng đậu cành ngô vàng sương lạnh,
Quạ đen kêu tiếng mõ báo canh tàn.
Khách vào nhà đón trăng sáng miên man,
Tiếng chày giặt lẫn gió buồn thê thiết.
Muốn về nam không tiền xuôi Quế Thủy,
Bắc Tần Xuyên giục giã trống quân vang.
Quá năm mươi còn lưu lạc chưa an ,
Ngày mai lại gậy lê nhìn mây trắng !
ĐC Đ.
Anh Chiêu Đức Thân Mến,
Tôi thật sự thích thú bài viết về Ngô Thể của Anh. Tuy không được phổ biến rộng rãi, không được các Thi Nhân hưởng ứng đông đảo, nhưng theo tôi nghĩ, đây vẫn được xem là thể thơ Mới đời Đường sau Thể Thơ Cận Thể Đường Luật. Đây chính là một hiện tượng thể hiện sự phóng khoáng, của Đỗ Phủ, của Người Xưa, cũng như Phan Khôi với Thơ Mới, Thanh Tâm Tuyền với Thơ Tự Do ở Việt Nam.
Mạn phép anh, tôi xin được Trích bài viết này để đưa vào http://http//huynhhuuduc.blogspot.com/ giới thiệu với mọi người.
Thân Chào
Huỳnh Hữu Đức
Thân gởi anh Hữu Đức,
Cám ơn anh đã có hứng thú với thơ Ngô Thể. Sự thật thì Ngô Thể không phải dùng để chỉ một thể thơ chính quy trong thi ca, mà dùng để chỉ một Phong Cách Sáng Tác văn học đặc thù do Đỗ Phủ đề xướng mà thôi.
Người đời Tống gọi là " Ảo Tự Thi " 拗字詩, hoặc "Ảo Thể " 拗體 ( chữ ẢO 拗 có nghĩa là Trúc trắc, trẹo lưỡi khó đọc ). Đến đời Thanh, thì Quế Phức gọi là " Ngô Quân Thể ", căn cứ vào thi nhân Ngô Quân đời Lương ( một nước trong thời Lục Triều trước đời Đường ), lúc bấy giờ Luật Thơ chưa thành hình, nhưng ông đã chú ý đến Bằng Trắc trong thơ Ngũ Ngôn, mặc dù chưa có Niêm Luật như đời Đường sau nầy, nhưng lời thơ đã thanh thoát suông sẻ mỹ lệ, nên được mọi người hưởng ứng mô phỏng, gọi là Ngô Quân Thể. Nhưng Quế Phức đã nhầm, vì lúc bấy giờ Luật Thi chưa được thành hình, và vì nếu mô phỏng Ngô Quân, thì Đỗ Phủ đã chú là " Ngô Quân Thể " rồi, tại sao chỉ nói gọn là " Ngô Thể " ?!