Văn Minh Quang Sưu tầm
Cái Răng, trước ngày 2 tháng 1 năm 2004 là thị trấn trung tâm hành chánh & kinh tế của huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang; sau nữa là của tỉnh Cần Thơ.Giờ đây Cái Răng vẫn với vai trò trên nhưng của quận Cái Răng, Tp Cần Thơ trực thuộc Trung ương, theo nghị định của Chính phủ ban hành vào ngày tháng vừa nêu trên.Quận Cái Răng sau khi được thành lập có 6.253,43 ha diện tích tự nhiên và 74.942 nhân khẩu; có 7đơn vị hành chính trực thuộc gồm các phường: Lê Bình, Thường Thạnh, Phú Thứ, Tân Phú, Ba Láng, Hưng Phú, Hưng Thạnh.
I.Vài tư liệu liên quan đến Cái Răng xưa:
- Sách Lịch sử khẩn hoang miền Nam, nxb Văn Nghệ Tp năm 1994 của nhà văn Sơn Nam:
-Vùng Cái Răng trở thành làng vào đời Minh Mạng rồi phát triển thêm.Năm Minh Mạng thứ 15(1834), làng Thường Thạnh tăng thêm dân cư, tách ra một làng mới tên Trường Thạnh…(tr.77)
-Làng TrườngThạnh tách ra từ làng Thường Thạnh do 2 người đứng đơn. Làng tân lập này gồm 8 người dân lậu và một niên lão 67 tuổi. Họ chịu đóng thuế 5 khoảnh đất, theo hạng Sơnđiền (mức thuế nhẹ)
- Khi Pháp đến vùng Ba Láng, nhánh của rạch Cần Thơ (tức rạch Cái Răng) là nơi khởi nghĩa của Đinh Sâm.Tuy ông này thất bại nhưng vào tháng 3 dương lịch 1870, chừng 200 nghĩa quân tụ tập lại ăn tiệc, chuẩn bị đánh tòa tham biện Cần Thơ.
Thực dân phát hiện kịp, bắt giam 111 người,trong số này chừng 55 người mà thực dân cho là nguy hiểm bị đề nghị đày ra Côn Nôn hoặc đảo Re’union.Tham biện lúc bấy giờ là Alexandre dùng dân địa phương làm xâu, cất nhà chung quanh nhà lồng chợ (chỉ chợ Cái Răng) để bán hoặc cho mướn lại (Tr.269)
-Tài liệu của E.Deschaseaux ghi chép:
Năm 1854, một đội khoảng 50 người dân lậu xin khẩn 2 khoảnh đất tổng cộng là 200 mẫu của làng Thường Thạnh ( Cái Răng). Đội trưởng Nguyễn Văn Tấnđứng đơn…Đơn này có quan tổng đốc An Hà phê.(tr.102-103)
-Trích tài liệu lưu trữ của văn khố tỉnh Cần Thơ.
L Lúa từ phía Rạch Giá theo kinh Xà No chở ra chợ Cái Răng, do người Huê kiều mua về, mướn nhà máy xay ra gạo tại chỗ trước khi đem về Chợ Lớn mà xuất cảng.Nhờ đó, chợ Cái Răng trở thành kho lúa gạo to lớn với nhiều dịch vụ mua bán mà người Huê kiều thao túng...
Năm 1908, chợ đã sung túc đến mức hương chức hội tề sở mua cái sườn nhà chợ khác to, chắc chắn hơn. Và đầu năm 1911, nhiều người bày ra sáng kiến lập chành (nơi thu gom hàng hóa), thoạt tiên chành cất bằng lá.Và cũng năm này công ty Asiatic Petroleum xin cất câu cầu sắt dài 15 mét tại bến Cái Răng cho tàu cặp bến dễ dàng hơn.
(Tôi nói thêm, trước 1975, cầu bị đặt bom mìn phá hỏng đôi lần, nay nó chỉ còn mấy đoạn sắt han rỉ nằm buồn thiu kề cận một cây cầu bê tông rộng, xe cộ lúc nào cũng qua lại như mắc cửi…)
Cái Răng là nơi đất tốt, đông dân cư, được lập làng từ thời Minh Mạng. Khoảng 1889 – 1890 người Pháp cho đào tại đây một con kinh, lúc đầu chưa có tên sau đó đặt là rạch Cái Răng.
Về mặt quản lý hành chính,đầu tiên Tòa Bố tỉnh Cần Thơ đặt tại Trà Ôn (làng Thiện Mỹ, tổng Bình Lễ), nhưng chỉ được một năm thì dời về đặt ởCái Răng (làng Thường Thạnh, tổng Định Bảo). Sau, do Nghị định của Soái phủ Nam Kỳ ngày 23-2-1876 vùng Phong Phú lập thành tỉnh Cần Thơ, tỉnh lỵ đặt tại đây. Từ đó Trà Ôn và Cái Răng trở thành quận.
-Nói thêm về anh hùng Đinh Sâm:
Đầu năm 1868, Đinh Sâm (chưa tra được tiểu sử) chiêu mộ nghĩa quân vùng Láng Hầm, Tầm Vu nổi lên giết tên Việt gian là cai tổng Nguyễn Văn Vinh và làm cho quân Pháp không lúc nào yên. Thực dân bèn sai hai tên tai sai là Trần Bá Lộc và Huỳnh Công Tấn đem quân tới đ àn áp, giết hại dân chúng nhưng vẫn không tiêu diệt nổi tinh thần yêu nước của đồng bào Cần Thơ
Tưởng nhớ tới các liệt sĩ hy sinh, Phan VănTrị là một trong những nhà thơ được nhân dân Nam Bộ yêu mến thời bấy giờ, đã làm hai câu thơ thật xúc động sau:
"Võ kiếm xung thiên, Ba láng giang đầu lưu hận huyết. Văn tinh lạc địa, Trà Niêng thôn lý đãi sầu nhan"
Tạm dịch:
"Kiếm võ ngút trời, Ba láng sông sâu tràn hận huyết. Sao văn sa đất, Trà Niêng thôn xóm thảy sầu mang"..( tra cứu riêng .BTDN)
II.Vì sao có tên gọi Cái Răng ? :
Cụ Vương Hồng Sển có ghi trong sách Tự vị tiếng Việt miền Nam (Nhà xuất bản Văn hóa, 1993) ở mục từ “Cái Răng”, trang 98:
“Cà ràng” ( karan) hình thù như con số 8 để nằm, một đầu là ba ông Táo lúđầu lên cao để đội nồi ơ siêu trách, còn một đầu kia nắn cái bụng chang bang dài dài vừa vặn với cây củi chụm, bụng này chứa được tro nhiều không rơi rớt ra ngoài, lại ấm cúng che kín gió, mau chín mau sôi.
Truy nguyên ra, trong sách Pháp, Le Cisbassac chẳng hạn, và nhiều sách khác đã có từ lâu vẫn ghi:
“Krôk kran: rạch Cái Răng, nay cứ lấy điển này làm chắc, một đàng khác hỏi thăm người cố cựu bản xứ thuật rằng ngày xưa, không biết từ đời nào, nguyên người Thổ (Cơ Me) ở Xà Tón (Tri Tôn) chuyên làm nồi đất và“karan” chất đầy mui ghe lớn rồi thả theo sông cái đến đậu ghe nơi chỗnày để bán, năm này qua năm nọ, chầy ngày người mình phát âm “karan”biến ra “Cái Răng” rồi trở nên địa danh thiệt thọ của chỗ này luôn.
III. Nói thêm về Cà Ràng:
1/Cà ràng thuộc văn hóa Óc Eo:
Thật ra chiếc cà ràng đã từng có mặt trên vùng đất này khoảng 1.500 – 2.000 năm (thế kỷ I đến thế kỷ VI). Chủ nhân của nó là cư dân thuộc nền văn hóa cổ ở Đồng bằng sông Cửu Long, bởi qua khai quật những di chỉ khảo cổ ở nhiều nơi trong vùng, thí dụ như kết quả khai quật khảo cổ học tại Gò Tháp (huyện Tháp Mười, Đồng Tháp) năm 2000 vừa qua, người ta đã bắt gặp hàng vạn hiện vật, đa phần là những mảnh gốm bể, trong đó nhiều nhất là mảnh bể cà ràng, vòi ấm (siêu), nồi, tô chén, chum vại, lu hũ...
Theo các nhà khảo cổ thì cà ràng và ấm siêu là hiện vật đặc trưng của nền văn hóa Óc Eo, thuộc vương quốc Phù Nam. Vậy thì, chiếc cà ràng mà ngày nay đang dần biến mất, đã là vật dụng thân thiết trong sinh hoạt đời sống con người từ hàng ngàn năm trước.
Và nó cũng là dấu ấn khó phai của cuộc sống khẩn hoang của cha ông từ hơn ba trăm năm trước: vì Cà Ràng sử dụng thật tiện lợi đặc biệt là với người sống nghề sông nước, rày đây mai đó… Chỉ cần một cái cà ràng đặt trên ghe, xuồng là người ta có thể thoải mái vừa nấu vừa nướng cùng một lúc. Phần trước cà ràng, nơi có lửa ngọn thì nấu, phần sau đuôi cà ràng, người ta cào thanđể nướng....
2/Nói sơ cách làm Cà Ràng:
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiệp :