北使初渡瀘江 Bắc Sứ Sơ Độ Lô Giang
叨持使節出京華, Thao trì sứ tiết xuất Kinh hoa,
駐馬孤亭日未斜。 Trú mã cô đình nhật vị tà.
別酒一杯分客興, Biệt tửu nhất bôi phân khách hứng,
瀘江東畔即天涯。 Lô Giang đông bạn tức thiên nha.
阮忠彥 Nguyễn Trung Ngạn
* Chú Thích :
- Thao Trì 叨持 : THAO là Nhờ vào, ké vào, May mà có được. Nên THAO TRÌ : là may mắn mà cầm được. Bốn chữ THAO TRÌ SỨ TIẾT 叨持使節 : May mắn mà cầm được cây cờ tiết của sứ giả. Đây là cách nói khiêm nhượng, ý là : Rất hân hạnh được cử đi sứ (nơi đất Bắc).
- Kinh Hoa 京華 : là Kinh thành hoa lệ, chỉ kinh đô Thăng long.
- Trú Mã 駐馬 : là Dừng ngựa lại để nghỉ ngơi.
- Cô Đình 孤亭 : là cái trường đình cô độc, nơi để cho những người đưa tiễn nhau đặt tiệc tiễn hành.
- Đông Bạn 東畔 : là Ở phía đông của bờ sông.
- Thiên Nha 天涯 : là Chân trời, chỉ nơi rất xa xôi.
* Nghĩa Bài Thơ :
Lúc Mới Sang Đò Sông Lô Khi Đi Sứ Bắc Quốc
Ta rất may mắn và hân hạnh ra khỏi kinh thành hoa lệ để đi sứ Bắc quốc. Dừng ngựa nơi trường đình cô độc khi trời chưa ngã bóng về chiều. Một chén rượu tiễn đưa chia cái tửu hứng của các người khách đến đưa tiễn. Khi đã qua được bên kia bờ đông của Lô Giang thì đã là nơi đất khách xa xôi như tận chân trời góc biển rồi !
* Diễn Nôm :
Bắc Sứ Sơ Độ Lô Giang
Giương cờ sứ tiết xuất kinh thành,
Dừng ngựa bên đình bóng nắng hanh.
Một chén rượu đưa chia tửu hứng,
Sông Lô bên ấy ngút trời xanh !
Lục bát :
Ơn Vua cờ sứ rời kinh,
Bóng chiều chưa ngã bên đình dừng chân.
Tiễn đưa chén rượu bâng khuâng,
Chân trời mờ mịt bên dòng sông Lô !
Đỗ Chiêu Đức