Kính gửi quý vị trưởng thượng và quý anh chị con cóc cuối tuần.
Dạo:
Diệu thay Đạo Pháp không lời,
Trong im lặng chính một trời sấm vang.
Cóc cuối tuần:
默 如 雷
雷 聲 寂 寂 震 乾 坤,
菩 薩 入 微 妙 法 門.
空 生 靜 坐 整 晨 昏.
高 徒 看 覺 花 而 笑,
良 馬 眺 鞭 影 便 奔.
大 士 搖 壇 經 已 講,
因 為 至 道 本 無 言.
陳 文 良
Âm Hán Việt:
Mặc Như Lôi
Lôi thanh tịch tịch chấn càn khôn,
Bồ tát nhập vi diệu pháp môn.
Đế Thích tán dương toàn nhật dạ,
Không Sinh tĩnh tọa chỉnh thần hôn.
Cao đồ khan giác hoa nhi tiếu,
Lương mã thiếu tiên ảnh tiện bôn.
Đại Sĩ dao đàn, kinh dĩ giảng,
Nhân vi Chí Đạo bản vô ngôn.
Trần Văn Lương
Nghĩa:
Im Lặng Như Sấm Sét (1)
Tiếng sấm lặng lẽ làm rúng động trời đất,
Bồ tát nhập vào pháp môn huyền diệu. (2)
Đế Thích tán thán thâu ngày đêm,
Không Sinh ngồi tĩnh tọa suốt sáng tối. (3)
Người trò giỏi nhìn đóa hoa của giác ngộ mà cười, (4)
Con ngựa giỏi liếc (thấy) bóng của roi bèn chạy. (5)
Đại Sĩ lay cái đài cao, kinh đã giảng (xong), (6)
Bởi chưng Đạo Lớn (7) vốn không lời. (8)
Chú thích:
(1) Mặc Như Lôi: đây là một thuật ngữ của Phật giáo, đặc biệt là của Thiền tông, ngụ ý nói rằng
mặc dù Phật, các Bồ tát và chư Tổ thường dùng im lặng để khai ngộ cho các đệ tử, nhưng tác động
của sự im lặng này mạnh mẽ như là sấm sét.
(2) Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, bản dịch của Thiền sư Thích Duy Lực, phẩm thứ chín, Nhập Pháp Môn Bất Nhị:
"
... Khi đó Văn Thù hỏi Duy Ma Cật rằng:
- Chúng tôi mỗi mỗi đã tự nói xong. Nay đến lượt nhơn giả nói : "Thế nào là nhập pháp môn
bất nhị của Bồ tát ?"
Duy Ma Cật im lặng. Văn Thù tán thán rằng:
- Lành thay ! Lành thay ! Cho đến chẳng có văn tự, lời nói mới là chơn nhập pháp môn bất nhị.
"
(Xin xem thêm Bích Nham Lục, tắc 87: Duy Ma Bất Nhị).
(3) Bích Nham Lục, tắc 6: Vân Môn Hảo Nhật:
Trích lời Bình của Viên Ngộ (bình bài Tụng của Tuyết Đậu):
"
...
Như Tu Bồ Đề (*) tránh ồn ào tìm chốn yên tĩnh, vào trong hang núi tĩnh tọa, vua trời
(Đế Thích) làm mưa hoa xuống tán thán Tu Bồ Đề rằng, "Tôi trọng tôn giả khéo giảng Bát nhã".
Tu Bồ Đề nói, "Tôi chưa từng nói một chữ nào về Bát nhã".
Đế Thích nói, "Tôn giả không có nói, tôi cũng không có nghe. Không nói không nghe,
đó mới thật là nói về Bát Nhã".
(*) Tên khác là Không Sinh.
(4) Vô Môn Quan, tắc 6: Thế Tôn Niêm Hoa:
Xưa Thế Tôn tại pháp hội Linh Sơn giơ cành hoa lên để thị chúng. Lúc đó mọi người đều
lặng thinh, chỉ có Ca Diếp nở mặt mỉm cười.
Phật bảo:
- Ta có chính pháp nhãn tạng, diệu tâm Niết bàn, tướng thực không tướng, pháp môn
vi diệu, không lập văn tự, tuyền riêng ngoài giáo, nay phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp.
(5) Vô Môn Quan, tắc 32: Ngoại Đạo Vấn Phật:
Cử:
Một kẻ ngoại đạo hỏi Phật:
- Không hỏi hữu ngôn, không hỏi vô ngôn.
Thế Tôn ngồi yên trên tòa. Ngoại đạo tán thán nói:
- Thế Tôn đại từ đại bi, khai mở đám mây tối tăm cho tôi, khiến cho tôi được vào.
Rồi làm lễ đầy đủ mà đi. A Nan tìm hỏi Phật:
- Ngoại đạo ngộ cái gì mà tán thán rồi đi vậy?
Thế Tôn nói:
- Như ngựa giỏi của thế gian, thấy bóng roi bèn chạy.
(Xin xem thêm Bích Nham Lục, tắc 65: Ngoại Đạo Lương Mã)
(6) Bích Nham Lục, tắc 69: Đại Sĩ Giảng Kinh:
Cử:
Lương Vũ Đế thỉnh Phó Đại Sĩ giảng kinh. Đại Sĩ lên tòa giảng,
lay bàn một cái rồi xuống khỏi tòa.
Vũ Đế ngạc nhiên.
Chí Công hỏi: "Bệ hạ có hiểu không?".
Đế bảo: "Không hiểu".
Chí Công nói: "Đại Sĩ giảng kinh xong rồi".
(7) Về chữ Đạo Lớn (Chí Đạo) xin xem thêm Tín Tâm Minh của Tam tổ Tăng Xán.
(8) Bích Nham Lục, tắc 12: Động Sơn Tam Cân:
Trích lời Bình của Viên Ngộ:
... Há không thấy người xưa bảo: Đạo vốn không lời, nhân lời mà bày tỏ đạo,
thấy đạo rồi tức quên lời.
Xin so sánh với:
- Lão tử Đạo Đức Kinh, chương Thể Đạo: "Đạo khả đạo, phi thường đạo" và chương Dưỡng Thân:
"Thị dĩ thánh nhân xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo" (Vì vậy
thánh nhân dùng "vô vi" mà xử sự, dùng "không lời" mà dạy dỗ).
- Trang tử Nam Hoa Kinh, thiên Trí Bắc Du: "Cố thánh nhân hành bất ngôn
chi giáo" (Cho nên thánh nhân thực hành việc giáo hóa mà không dùng lời nói).
Phỏng dịch thơ:
Im Lặng Sấm Sét
Lặng im như sấm nổ tung trời,
Bồ tát làm thinh khéo độ người.
Đế Thích tán dương thời chẳng dứt,
Không Sinh tĩnh tọa phút nào ngơi.
Ngựa hay roi chửa hươi đà chạy,
Kẻ ngộ hoa vừa thấy vội cười.
Đại Sĩ ngậm hơi, kinh giảng trọn,
Bởi chưng Đạo Lớn vốn không lời.
Trần Văn Lương
Cali, 9/2024
Lời bàn của Phi Dã Thiền Sư:
Thế Tôn lặng thinh, Duy Ma Cật không lời, thế mà sự im lặng lại vang như sấm sét!
Quả có lý này ư?
Trong kinh (Hoa Nghiêm, Lăng Già) Đức Phật dạy rằng trong 49 năm giáo hóa Ngài
chưa hề nói một chữ hay một lời nào.
Khó hiểu thật ư? Hãy nhìn cánh hoa kia và khẽ mỉm cười!
Đấy!
Lành thay!
Kính Tiền bối,
cho phép Đỗ Chiêu Đức gởi một con nhái họa vận cho vui :
Dạo :
Âm thầm hành cước lặng thinh,
Yêu ma tăng hiện nguyên hình khắp nơi !
震動乾而顛倒坤, Chấn động càn nhi điên đão khôn,
得來何處此玄門? Đắc lai hà xứ thử huyền môn ?
腳行寂寂驚天地, Cước hành tịch tịch kinh thiên địa,
坐睡悠悠度暗昏。 Tọa thụy du du độ ám hôn.
不覺不知還
明慧師 MINH TUỆ SƯ
不慮, Bất giác bất tri hoàn bất lự,
無焦無急又無奔。 Vô tiêu vô cấp hựu vô bôn.
讒僧一切原形現, Sàm tăng nhất thiết nguyên hình hiện,
終始頭陀沒一言! Chung thuỷ Đầu đà một nhất ngôn !
杜紹德 Đỗ Chiêu Đức
* Nghĩa bài thơ :
SƯ MINH TUỆ
- Làm chấn động và nghiêng ngã cả càn khôn trời đất,
- Được như thế là do cái huyền môn từ đâu mà có vậy ?
- Bước chân hành cước âm thầm nhưng làm kinh động cả đất trời,
- Ngồi ngủ mơ màng dằng dặc cho qua đêm tối âm u.
- Không cảm không nhận cũng không lo lắng gì cả,
- Không gấp không gáp cũng chẳng phải bôn ba. Ấy vậy mà...
- Các sàm tăng khắp nơi đều hiện nguyên hình tất cả, Mặc dù...
- Trước sau gì sư Đầu đà đều không có nói tới họ một lời nào cả !
* Diễn Nôm :
SƯ MINH TUỆ
Chấn động càn khôn cả đất trời,
Huyền môn có được tự đâu nơi ?
Âm thầm hành cước rung trời đất,
Lặng lẽ canh thâu ngủ đứng ngồi.
Không biết không lo không vướng bận,
Chẳng cầu chẳng gấp chẳng rong chơi.
Sàm tăng đều hiện nguyên hình tích,
Sau trước sư không nói một lời !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Thu, Sep 5, 2024
Kính anh
Em có nhận được bài thơ Hán ngữ xướng họa của anh vịnh Thầy Thích Minh Tuệ.
Em xin kính họa bằng Hán ngữ và cũng có kèm bản Việt ngữ (Tự dịch) để nói ý mình.
Em làm mất 4 bài Xướng Họa và Tự dịch của anh và ông L mà anh đã gởi cho em vì có 2 tuần Laptop của em hư nên khi có cái mới thì một số tài liệu bị mất. Xin anh làm ơn gửi lại cho em, em rất cám ơn.
Em cám ơn anh nhiều và mong được hồi âm.
Thân kính
Hải
TUỆ ĐỘ (Họa)
{Bản Hán ngữ}
Cư sĩ minh tâm bất thiết khôn
An sinh trần thế học Thiền môn
Nhân duyên xã hội tình giao hữu
Kiến lập gia đình nghĩa kết hôn
Đoạn hoặc từ bi chung hoặc nghiệp
Độc hành khất thực khổ hành bôn
Phật Đà giác ngộ lưu kinh tự
Bồ Tát giác tha dụng tuệ ngôn.
(Phan Thượng Hải)
9/6/24
(*) Chú thích:
Tuệ Độ:
-Tuệ = sáng suốt, thông minh = Wisdom = Prajna (tiếng Phạn, sanskrit) = Bát nhã (dịch âm của Prajna).
- Độ = toàn hảo = Perfection, perfect = Paramita (tiếng Phạn, sanskrit) = Ba la mật đa (dịch âm của paramita).
- Tuệ Độ (Trí Tuệ Độ)
= sáng suốt toàn hảo
= perfection of wisdom, perfect wisdom
= prajna paramita
= Bát nhã ba la mật đa = Bát nhã (gọi tắt).
Phật Đà = (dịch âm của) Buddha = Phật (gọi tắt) = Giác Giả, người Giác ngộ = Enlightened one, Awakening on.
Giác tha = Giác ngộ Tha nhân (= người khác).
Khôn = Cạo đầu. (Hán Việt Tự Điển của Trần Trọng San).
TUỆ ĐỘ
{Bản Việt ngữ}
Chẳng thiết cạo đầu, cư sĩ khôn
Sống yên trần thế học Thiền môn
Nhân duyên xã hội tình giao hữu
Kiếp lập gia đình nghĩa kết hôn
Khất thực độc hành người vẫn khổ
Từ bi đoạn hoặc nghiệp không tồn
Phật Đà giác ngộ lưu kinh tự
Bồ Tát giác tha dụng tuệ ngôn.
(Phan Thượng Hải)
9/6/24
Kính Bác Sĩ,
Trước tiên xin được viết lại bài thơ Họa "Bản Hán Ngữ" của Bác sĩ bằng chữ Hán, rồi sẽ cho phần nhận xét và góp ý ở bên dưới.
慧渡 TUỆ ĐỘ
居士明心不切髡, Cư sĩ minh tâm bất thiết khôn,
安生塵世學禪門。 An sinh trần thế học thiền môn.
姻緣社會情交友, Nhân duyên xã hội tình giao hữu,
建立家庭義結婚。 Kiến lập gia đình nghĩa kết hôn.
斷惑慈悲終惑業, Đoạn hoặc từ bi chung hoặc nghiệp,
獨行乞食苦行奔。 Độc hành khất thực khổ hành bôn.
佛陀覺悟留經字, Phật Đà giác ngộ lưu kinh tự,
菩薩覺他用慧言。 Bồ Tát giác tha dụng tuệ ngôn.
潘上海 Phan Thượng Hải
* Chú thích :
- Xin được CÁO LỖI trước, vì Tên Gọi là Danh từ riêng nên không biết là 3 chữ Phan Thượng Hải có đúng là 3 chữ nầy 潘上海 không ? Nếu SAI, xin cho biết chữ ĐÚNG để sửa đổi lại.
- 慧渡 Tuệ Độ : Dùng trí tuệ từ bi của Phật để phổ độ chúng sinh, hay "Chúng sinh được phổ độ bởi trí tuệ từ bi của Phật".
- 居士 Cư Sĩ : là Kẻ sĩ cư trú ở nhà. Nghĩa ban đầu của CƯ SĨ vốn dùng để chỉ kẻ sĩ của đạo Nho ở nhà không chịu ra làm quan; Sau dùng rộng ra để chỉ chung những người Tu Tại Gia của các Nho, Thích, Đạo Giáo. Trong Phật Giáo CƯ SĨ là grha-pati (Phạn văn), người Hoa lại phiên âm là Dà-La-Việt 迦羅越, hay Đàn Việt 檀越 để chỉ những người bố thí cúng dường y thực cho các tăng nhân, như cụ Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều là :
Gió quang mây tạnh thảnh thơi,
Có người ĐÀN VIỆT lên chơi cửa GIÀ.
GIÀ là GIÀ LAM 伽藍 tiếng Phạn là “samghārāma (सँघाराम)” là Cánh rừng nơi các tăng chúng tu họp để tu hành, sau dùng chỉ Nhà Chùa.
- Khôn 髡 : Cạo trọc đầu. Đây là một hình phạt ngày xưa đối với những người phạm tội (Theo Nho giáo thì : Thân thể phát phu thọ chi phụ mẫu 身體髮膚受之父... Tóc da thân thể là do cha mẹ ban cho... nên không thể tự ý cắt bỏ được). Khi đạo Phật du nhập các nhà sư phải thế phát quy y, nên KHÔN 髡 cũng dùng để chỉ các nhà SƯ.
- Đoạn Hoặc 斷惑 : Tiếng Phạn là "kle?ah prahīyate". ĐOẠN là Cắt đứt; HOẶC là Mê hoặc là Phiền não. Nên ĐOẠN HOẶC là Cắt đứt mọi phiền não.
* Ý Kiến :
Bốn câu đầu không có liên quan gì đến nhà sư Minh Tuệ cả mà nói chung cho những người có lòng hướng về với đạo pháp :
- Người cư sĩ tu tại gia trong lòng sáng suốt nên không nhất thiết phải cạo đầu.
- Muốn sống yên trong trần thế nầy nên phải học theo cửa thiền môn.
- Nhân duyên trong xã hội là những giao tình bằng hữu với nhau.
- Kiến lập gia đình là phải biết cái nghĩa (vợ chồng) trong việc kết hôn.
Sư Minh Tuệ không phải là một cư sĩ, cũng không dựa dẵm vào thiền môn nào cả; Sư cũng không có giao du hằng hữu trong xã hội và cũng chưa từng kết hôn.
Bốn câu sau là...
- Đoạn tuyệt với mọi phiền não, lấy lòng từ bi để dứt hết các nghiệp duyên.
- Một thân một mình đi khất thực, không ngại khổ nhọc mà bươn chải.
- Phật đã giác ngộ và để lại những kinh tự chữ nghĩa (cho ta noi theo)...
- Bồ Tát đã cảm hóa người khác bằng cách dùng những lời từ bi trí tuệ.
Sư đã tu theo sự giác ngộ của mình với những lời của Phật Đà để lại với đường hướng khổ hạnh của mười ba hạnh đầu đà.
Nói chung, bài thơ chỉ chung về những người có lòng mộ đạo tu hành trong xã hội, trong cuộc sống thường ngày giữa vợ chồng bè bạn... chỉ có điều là tu theo đường lối khổ hạnh mà thôi.
Về Hình Thức thì tuyệt vời! Không ngờ Bác sĩ không dùng "một mặt chữ Hán" nào cả mà sử dụng từ ngữ thật chính xác; viết câu trôi chảy đúng với Tập Quán Ngôn Ngữ của chữ Nho, không cầu kỳ, không lập dị... Quả là hiếm thấy trong những người chuyên về ÂM HÁN VIỆT mà làm được thơ bằng VIỆT ÂM HÁN luôn, mới thật là Độc Đáo khó tìm !
Chỉ góp một ý rất nhỏ thôi : Câu 2
An sinh trần thế học Thiền môn.
đổi từ An Sinh 安生 thành AN CƯ 安居.
- AN CƯ là Sống yên vui; AN CƯ LẠC NGHIỆP mà ! Còn...
- AN SINH là Sống bình yên không bệnh tật nạn tai.
AN CƯ chỉ Đời sống, còn AN SINH chỉ Cuộc Sống. Ở một Ngữ Cảnh nào đó thì AN CƯ và AN SINH cũng có nghĩa giống như nhau !
Một ý nữa là bài thơ Họa Vận chỉ chỉnh với Chữ Quốc Ngữ, chứ không chỉnh đối với từ Hán Việt :
- Vần KHÔN 髡 (là Cắt tóc) ở cuối câu 1, phải là chữ KHÔN 坤 (là CÀN KHÔN 乾坤).
- Vần HÔN 婚 (là Kết Hôn 結婚) ở cuối câu 4, phải là chữ HÔN 昏 (là Hôn Ám 昏暗).
Nhưng, trên đây chỉ là những vấn đề nhỏ không đáng kể ! Tôi nói thật long .
Đỗ Chiêu Đức
TRÒ CHƠI XƯỚNG HỌA - Họa thơ danh tướng ĐẶNG DUNG + VÀI CẢM NGHĨ VỀ THƠ XƯỚNG HỌA-
Kính chú Vinh và anh Chiêu Đức.
Khi đọc một bài thơ Hán ngữ thì em ráng tìm hiểu những chữ khó hiểu để giải thích ra thì em hiểu rõ ý nghĩa và enjoy bài thơ đầy đủ mà không cần bài dịch vì bài dịch luôn thiếu sót và có khi sai nghĩa!
Em nghĩ khi dịch ra thì nếu cùng bao nhiêu chữ và thể thơ cũng không lột được hết ý nghĩa của bài Hán ngữ mà nếu dùng nhiều chữ hơn với thể thơ khác thì bản dịch không có giá trị.
Theo em, Hán ngữ đại đa số là Việt ngữ và người thích đọc thơ hay làm thơ thì trình độ hiểu biết Hán Việt ngữ đã khá cao nên chỉ tìm hiểu chút ít thì có thể enjoy được bản Hán ngữ không khó khăn. Hơn nữa nếu tìm hiểu thường thì kho (arsenal) ngôn ngữ của mình càng dồi dào thêm và giúp cho mình làm thơ dễ hơn? (Người Việt nên học tiếng Việt?).
*
Do đó đây là cách em trình bày bài thơ Hán ngữ “Cảm Hoài (Thuật Hoài)” với chú thích những chữ khó thì mọi người đều hiểu và enjoy bài thơ mà không cần bản dịch.
CẢM HOÀI (Nguyên bản)
Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chúa hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.
(Đặng Dung)
(*) Chú thích (tài liệu: Từ điển Đào Duy Anh và Tự điển Trần Trọng San):
Du du = xa xôi man mác, thong thả lửng lơ, (trông nhớ) vòi vọi. Nại hà = Làm sao được? (Que faire). Nại lão hà = Già làm sao được?
Hàm = say sưa, say rượu. Hàm ca = hát trong khi say rượu, hát say sưa. Nhập = vào, nhập vô.
Đồ = giết và làm thịt súc vật. Điếu = câu cá. Dị = khác. Đa = nhiều. “Đồ điếu” lấy từ điển tích Phàn Khoái là đồ tể làm thịt súc vật và Hàn Tín là người câu cá, cả hai giúp Cao tổ Lưu Bang dựng nên nhà Hán.
Lai = đến, lại. Khứ = đi, đã qua. Địa trục = Trục của trái đất. Thời ông Đặng Dung chưa biết trái đất hình tròn! Phù = phò, phù.
Trí = đặt, dựng lên. Tẩy = tẩy, rửa hết sạch. Thiên hà = Ngân hà, sông Ngân. Vãn = kéo. Lộ = đường, phương hướng, phương pháp.
Câu 6 lấy ý từ 2 câu thơ trong bài thơ “Tẩy Binh Mã” của Đỗ Phủ:
An đắc chiến sĩ vãn thiên hà (Ước gì có người chiến sĩ kéo sông Ngân hà)
Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng (Rửa sạch giáp binh để dài lâu không dùng đến nữa).
Vị = chưa. Đầu tiên bạch = Đầu bạc trước. Tiên = trước.
Kỷ = vài, mấy, bao nhiêu. Độ = lần, bận. Kỷ độ = mấy độ. Long Tuyền = tên của 1 thanh gươm báu. Đới = đội. Nguyệt = mặt trăng. Ma = mài.
Em cũng nghĩ những học giả uyên thâm Hán học như chú và anh thì có thể Họa thơ Hán ngữ dễ dàng thành một bài thơ mới.
Tình cảnh và nỗi lòng yêu nước của ông Đặng Dung trong thời quân chủ của thế kỷ 13 khác với của chúng ta ngày nay. Bài thơ của ông Đặng Dung không thể hiện được “cảm hoài” của chúng ta trong không gian và thời gian ngày nay.
Như em có thưa trước với câu “Many who are first will be last, and many who are last will be first” (Bible) thì mọi người đều bình đẳng trong vũ trụ (không gian và thời gian) tuy biết rằng chúng ta cũng có kính trọng tiền nhân và tha nhân. Chú và anh có thể họa bài thơ này dễ dàng nhưng vì lòng kính trọng nên không làm đó thôi?
Do đó em mạo muội họa vì không thấy chú và anh làm và em nghĩ rằng nếu mình chú ý đến Hán Việt ngữ và tra từ điển Hán Việt và chú trọng đến văn phạm của Hán ngữ (khác chút đỉnh với Tiếng Việt) thì làm bài thơ Hán ngữ như tiền nhân không quá khó khăn.
Em nghĩ Chữ Quốc ngữ của người Việt cũng viết được Hán ngữ không cần phải Hán tự.
CẢM HOÀI (Họa)
Cảm hoài tổ quốc ái sơn hà
Viễn xứ tồn sinh chính khí ca
Võ lực trượng phu chung thế mãnh
Văn chương hào kiệt lập ngôn đa
Truyền âm trí tạo chân Dân Chủ
Chuyển vận hoàn lai thực Cộng Hòa
Tri nại lão hà, oanh liệt lão
Tung hoành thiết bút đới thiên ma.
(Phan Thượng Hải)
10/22/24
(*) Chú thích:
Như Chính Khí ca của Văn Thiên Tường.
Chung = hết. Mãnh = mạnh mẽ, hùng dũng. Đa = nhiều.
Nại hà = Làm sao được? (Que faire) {Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh}. Nại lão hà = Già làm sao được?
Thiết bút = bút sắt. Đới (Đái) = đội. Đới thiên = đội trời. Ma = kéo dài thời gian {Hán Việt tự điển của Trần Trọng San và Trần Trọng Tuyên}.
Nguyên bản có trùng vận (và điệp ngữ) “Hà” ở câu 1 và câu 6 nên Họa bản được chọn vận mới cho câu 1 hoặc câu 6.
2 bài Xướng Họa:
CẢM HOÀI CẢM HOÀI
(Xướng) (Họa)
Thế sự du du nại lão hà Cảm hoài tổ quốc ái sơn hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca Viễn xứ tồn sinh chính khí ca
Thời lai đồ điếu thành công dị Võ lực trượng phu chung thế mãnh
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa Văn chương hào kiệt lập ngôn đa
Trí chúa hữu hoài phù địa trục Truyền âm trí tạo chân Dân Chủ
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà Chuyển vận hoàn lai thực Cộng Hòa
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch Tri nại lão hà, oanh liệt lão
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma. Tung hoành thiết bút đới thiên ma.
(Đặng Dung) (Phan Thượng Hải)
Thân kính
Hải
TB. Xin nhị vị đừng la đàn em. Lâu lâu có "thần khẩu hại xác phàm". 😄🙏
Kính Bác sĩ,
Bác sĩ nói rất đúng. Nhưng chỉ đúng riêng với Bác sĩ là người có nghiên cứu về học thuật mà thôi ! Chữ Nho từ "Đồng Âm" rất nhiều, nếu không có "mặt chữ Hán" để phân biệt, thì rất dễ nhầm CHỮ và nhầm NGHĨA. Ví dụ như câu thơ thứ ba trong bài THUẬT HOÀI của Đặng Dung mà Bác sĩ đã chú thích :
...Đồ = giết và làm thịt súc vật. Điếu = câu cá. Dị = khác. Đa = nhiều.
Chữ DỊ trong câu thơ "Thời lai đồ điếu thành công dị, 時來屠釣成功易" có nghĩa là DỄ, chớ không phải DỊ 異 là KHÁC.
Về bài thơ "Họa Vận bài Thuật Hoài" của Bác sĩ, xin được góp ý như sau đây :
CẢM HOÀI (Họa)
Cảm hoài tổ quốc ái sơn hà
Viễn xứ tồn sinh chính khí ca
Võ lực trượng phu chung thế mãnh
Văn chương hào kiệt lập ngôn đa
Truyền âm trí tạo chân Dân Chủ
Chuyển vận hoàn lai thực Cộng Hòa
Tri nại lão hà, oanh liệt lão
Tung hoành thiết bút đới thiên ma.
(Phan Thượng Hải)
10/22/24
* GÓP Ý :
Câu 1. "Cảm hoài tổ quốc ái sơn hà" là "Cảm thương và hoài vọng về Tổ quốc nên yêu núi sông". Về Ý : Trùng lắp, "Cảm thương và hoài vọng về Tổ quốc..." trong Tổ quốc đã có "ái sơn hà" trong đó rồi; Nên, 3 chữ "ái sơn hà" bị... dư ! Về TỪ : chữ HÀ 河 trong "sơn hà 山河" có nghĩa là sông, khác với chữ HÀ 何 trong câu thơ đầu của Đặng Dung : "Nại lão HÀ 奈老何 ?(Biết phải làm sao với cái già... cứ sồng sộc tới ?)" HÀ 何nầy là Nghi vấn tự, có nghĩa là "Sao ?, là thế nào ?". Theo thiển ý 2 câu đầu có thể viết lại như thế nầy :
Viễn hoài cố lý ý như hà ? 遠懷故里意如何?
Dị quốc tồn sinh chính khí ca ! 異國存生正氣歌!
Câu thứ 3 đổi chữ "Lực 力" thành chữ "Dũng 勇" và câu 3, 4 sẽ như sau :
Võ dũng trượng phu chung thế mãnh, 武勇丈夫終世猛,
Văn chương hào kiệt lập ngôn đa. 文章豪傑立身多。
Hai câu 5, 6 sẽ viết lại như thế nầy :
Tùy thời kiến tạo chân Dân Chủ, 隨時建造真民主,
Chuyển vận hoàn thi thực Cộng Hòa. 轉運還施實共和。
... và 2 câu kết sẽ như thế nầy :
Bất nại lão hà, oanh liệt lão, 不奈老何轟烈老,
Tung hoành thiết bút mỗi thiên ma! 縱橫鐵筆每天磨!
"... Vì là lão già oanh liệt, nên bất chấp cái già cứ sồng sộc đến; Mỗi ngày đều tung hoành mà mài bút sắt !". Bút sắt không có mài ngoài trời, nên không dùng "đới thiên" được !
Bài thơ sửa xong sẽ như dưới đây :
CẢM HOÀI (Họa) 感懷(和)
Viễn hoài cố lý ý như hà ? 遠懷故里意如何?
Dị quốc tồn sinh chính khí ca ! 異國存生正氣歌!
Võ dũng trượng phu chung thế mãnh, 武勇丈夫終世猛,
Văn chương hào kiệt lập ngôn đa. 文章豪傑立身多。
Tùy thời kiến tạo chân Dân Chủ, 隨時建造真民主,
Chuyển vận hoàn thi thực Cộng Hòa. 轉運還施實共和。
Bất nại lão hà, oanh liệt lão, 不奈老何轟烈老,
Tung hoành thiết bút mỗi thiên ma! 縱橫鐵筆每天磨!
"Thầy Đồ Dỏm" ngứa nghề thầy giáo, sửa càn sửa ẩu thơ của Bác sĩ...
Kính mong hỉ xả !
Thân mến,
Đỗ Chiêu Đức