陀江小泊 ĐÀ GIANG TIỂU BẠC
圓嶠舟中路匪賒, Viên kiệu chu trung lộ phỉ xa,
翠鬟白浪古山河。 Thúy hoàn bạch lãng cổ sơn hà.
憸人莫不中腸愧, Tiêm nhân mạc bất trung trường quý,
鸚語猩言日日多。 Anh ngữ tinh ngôn nhật nhật đa !
* Chú thích :
- ĐÀ GIANG TIỂU BẠC 陀江小泊 : là Cắm thuyền nghỉ một lát ở sông Đà.
- Viên Kiệu 圓嶠 : Trái núi tròn mà cao, ở đây chỉ núi Tản Viên 傘圓.
- Thúy Hoàn 翠鬟 : Búi tóc xanh, ở đây mượn để chỉ dãy núi Ba Vì trùng điệp cỏ cây như những búi tóc xanh.
- Bạch Lãng 白浪 : Sóng trắng, chỉ sóng bạc đầu sủi bọt trắng xóa.
- Tiêm Nhân 憸人 : Những người gian tà, người không biết liêm sỉ.
- Quý 愧 : là Hổ thẹn, Mắc cở.
- Anh Ngữ Tinh Ngôn 鸚語猩言 : Tiếng hót của chim anh vũ và tiếng hú của con vượn; nói chung là "Tiếng chim kêu vượn hú".
* Nghĩa bài thơ :
Ghé Bến Sông Đà
Ở trong thuyền, nhìn lên núi Tản Viên, thấy con đường cũng không xa lắm.
Các dãy núi xanh chập chùng như những búi tóc và những đợt sóng trắng sủi bọt như bạc đầu, đều là những núi sông xưa cũ. Trước cảnh trí nầy, những kẻ tiểu nhân gian tà cũng không thể không thấy trong lòng hổ thẹn, trong khi tiếng oanh ca vượn hót ngày một rộn rã thêm ra.
Núi sông sơn hà vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, cũng mãi vẫn sừng sửng ra đó, từ xưa đến nay vẫn trường tồn và tươi đẹp biết bao. Khiến cho những kẻ gian tà không biết yêu thương và phục vụ cho đất nước cũng phải cảm thấy tự thẹn trong lòng trước tiếng chim kêu vượn hú vẫn hằng ngày gắn bó với đất nước núi sông.
* Diễn Nôm :
ĐÀ GIANG TIỂU BẠC
Dưới thuyền ngắm đỉnh Tản Viên xa,
Sóng bạc núi xanh đất nước ta.
Những kẻ gian tà lòng cũng thẹn,
Ngày ngày vượn hú lẫn chim ca !
Lục bát :
Tản Viên thuyền ngắm không xa,
Núi xanh sóng bạc san hà cổ xưa.
Gian tà lòng cũng thẹn thùa,
Chim kêu vượn hú bốn mùa nước non !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm