1. BẢN CHỮ HÁN CỔ CỦA BÀI THƠ
幽居 U CƯ
韋應物 Vi Ứng Vật
貴賤雖異等, Quí tiện tuy dị đẳng,
出門皆有營。 Xuất môn giai hữu dinh.
獨無外物牽, Độc vô ngoại vật khiên,
遂此幽居情! Toại thử u cư tình !
微雨夜來過, Vi vũ dạ lai quá,
不知春草生。 Bất tri xuân thảo sanh.
青山忽已曙, Thanh sơn hốt dĩ thự,
鳥雀繞舍鳴。 Điểu tước nhiễu xá minh.
時與道人偶, Thời dữ đạo nhân ngẫu,
或隨樵者行。 Hoặc tùy tiều giả hành.
自當安蹇劣, Tự đương an kiển liệt,
誰謂薄世榮?! Thùy vị bạc thế vinh ?!
清沏溪流两岸林木枝茂叶繁,我乘着车马安闲地归隐嵩山。
流水有意与我同去永不回返,暮鸟有心跟我一起倦飞知还。
荒凉的城郭紧挨着古老渡口,夕阳的余辉映着经秋的重山。
远远地来到嵩山下安家落户,决心归隐谢绝来客把门闭关。
Hai bên bờ nước chảy trong veo là rừng cây xanh rậm rạp, Ta an nhàn ngồi trên xe ngựa thong thả mà về Tung sơn quy ẩn. Nước chảy như cũng cùng đi với ta mà không hẹn ngày trở lại, những cánh chim chiều cũng muốn cùng ta mỏi cánh trở về. Thành quách hoang vu nằm sát cạnh bến đò xưa cũ, những ánh nắng chiều còn rơi rớt lại phản chiếu trên những dãy núi vào thu. Nơi xa xa kia dưới rặng Tung Sơn là nơi ta an vị, với lòng quyết tâm quy ẩn nên cửa đóng then cài tạ từ hết khách vãng lai.
3. Diễn nôm :
CẢM TÁC khi VỀ TUNG SƠN
Suối trong bờ xanh lá
Xe ngựa chầm chậm thôi
Nước trôi dường hữu ý
Chim chiều cũng phản hồi
Thành hoang trên bến vắng
Nắng thu ngập núi đồi
Xa xa dưới chân núi
Đóng cửa tự thảnh thơi.
Lục bát :
Sông xanh uốn lượn rừng xanh,
Ngựa xe chầm chậm yên lành về xa.
Nước như có ý tiễn ta,
Chim chiều vỗ cánh cùng qua núi đồi.
Thành hoang bên bến đò côi,
Nắng chiều ngàn núi lá rơi thu vàng.
Tung Sơn xa tít dưới ngàn,
Trở về đóng cửa bế quan tạ từ.