Nguyên tác bài thơ chữ Hán cổ như sau :
傷 春 THƯƠNG XUÂN
三月風光不忍看, Tam nguyệt phong quang bất nhẫn khan
五陵春色何摧殘。 Ngũ lăng xuân sắc hà thôi tàn
窮途得志反惆悵, Cùng đồ đắc chí phản trù trướng
飲席話舊多闌珊。 Ẩm tịch thoại cựu đa lạn san
中酒向陽成美睡, Trung tửu hướng dương thành mỹ thụy
惜花衝雨覺傷寒。 Tích hoa xung vũ giác thương hàn
野棠飛盡蒲根暖, Dã thường phi tận bồ căn noãn
寂寞南溪倚釣竿。 Tịch mịch nam khê ỷ điếu can
韓 偓 Hàn Ốc
Dịch nghĩa :
Thương Cảm Cho Mùa Xuân
Không nỡ ngắm nhìn quang cảnh tàn xuân tháng ba, xuân sắc Ngũ lăng sao lại tàn tạ như thế nầy ?. Lúc cùng đường mà được đắc chí lai. đâm ra hoang mang, trong tiệc rượu nói chuyện cũ phần nhiều hay nói lan man. Thích uống rượu ban ngày lại dễ dỗ giấc ngủ ngon, thương cho hoa cảm thấy hiu hắt khi bị mưa gió dập vùi. Hoa dại bay theo gió rụng hết phủ ấm gốc cỏ bồ, cô đơn một mình tựa cần buông câu bên bờ khe suối phía nam.
Diễn nôm :
Thương Cảm Cho Mùa Xuân
Cảnh trí tháng ba buồn chẳng ngắm
Đành sao tàn lụi Ngũ lăng xuân
Cùng đường đắc chí đâm ngơ ngẩn
Tàn tiệc chuyện xưa hóa ngại ngần
Thích rượu nắng phơi càng dỗ giấc
Tiếc hoa mưa dập lại thương thân
Hoa tàn rụng phủ thân cây ấm
Bên suối buông câu gối tựa cần.
Lục bát :
Tháng ba ngắm cảnh xuân tàn
Ngũ lăng xuân sắc bàng hoàng nàng thơ
Cùng đường đắc chí lại ngờ
Tiệc tàn chuyện cũ thẩn thờ lòng ai
Rượu vào gặp nắng ngủ say
Thương hoa tan tác ai hoài mưa xuân
Hoa rơi xác phủ ấm thân
Suối nam vắng vẻ tựa cần buông câu.
Đỗ Chiêu Đức