Bây giờ đã qua rằm tháng giêng , hết mùng rồi nghĩa là hết Tết , song trời vẫn đang xuân . Kính chuyển đến Thầy và các bạn thơ bài Xuân Dạ của thi hào Nguyễn Du để cùng thấm thía với Cụ cảnh đêm xuân xa nhà lại bịnh hoạn rề rề .
Năm 1789, Tây Sơn chiếm Bắc Hà, cụ vừa 24 tuổi. Để tránh nạn binh lửa, cụ đã về ẩn tại quê vợ, huyện Quỳnh Côi (Thái Bình). Bài thơ trên nằm trong Thanh Hiên tiền hậu tập, có lẽ đã được cụ Nguyễn Du làm trong thời gian này, lúc cụ chưa tới 30 tuổi. Qua đấy ta có thể thấy thể chất của cụ không mấy khỏe mạnh do cuộc sống nghèo túng và bản thân cụ cũng hay đau ốm. Chính nơi đây đã chôn vùi quãng đời thanh xuân của cụ. Sống nơi thôn ổ, cụ đã gần gũi và hiểu biết rõ ràng đời sống và tâm tình của tầng lớp dân quê nghèo khó. Mãi hơn 10 năm sau, lúc đã 37 tuổi (1802) cụ mới ra làm quan với triều Nguyễn với chức vụ Tri Huyện Phù Dung (Hưng Yên) rồi sau đó thăng Tri phủ Thường Tín (Hà Tây).
Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm?
Tiểu song khai xứ liễu âm âm
Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu
Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm
Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm
Nam Đài thôn ngoại Long Giang* thủy
Nhất phiến hàn thanh tống cổ câm (kim).
* Long Giang hay Thanh Long giang: sông Lam.
Đêm tối tăm tìm đâu xuân sắc
Liễu âm u im phắt ngoài song .
Giang hồ bệnh hoạn khiếp lòng
Xuân về mưa gió mịt mùng đêm sâu .
Khách bên đèn lệ sầu năm tháng
Quê dặm ngàn lai láng nguyệt trông .
Nam Đài Long Thủy một dòng
Cổ kim sóng tiễn lạnh lùng mãi trôi .
Đêm sâu chẳng sáng chút nào
Bên hiên liễu rủ một màu tóc tang
Bệnh lâu thẹn đối giang san
Gió mưa điên đảo tâm can dật dờ
Quê hương muôn dặm ơ hờ ngắm trăng
Ngoài thôn sông nước lạnh căm
Thời gian lướt nhẹ khôn ngăn tiếng lòng
Đỗ Chiêu Đức cũng tham gia với bài dịch sau đây :
Ánh xuân đêm tối biết đâu tìm,
Mờ mịt ngoài song liễu lặng im.
Bệnh tật song hồ cùng dai dẵng,
Gió mưa xuân sắc vẫn im lìm.
Dưới đèn giọt lệ sầu xa xứ ,
Bóng nguyệt quê nhà xót nhói tim.
Dòng nước Long Giang cuồn cuồn mãi,
Lạnh lùng cuốn sạch cổ cùng kim.