冬菊 ĐÔNG CÚC
一種延年館裡栽, Nhất chủng diên niên quán lý tài,
晚香獨向雪中開。 Vãn hương độc hướng tuyết trung khai.
莫笑爭芳時太晚, Mạc tiếu tranh phương thời thái vãn,
先春肯讓一枝梅。 Tiên xuân khẳng nhượng nhất chi mai !
阮秉謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- Đông Cúc 冬菊 : Cúc mùa đông; thay vì THU CÚC 秋菊 là cúc nở vào mùa thu, thì bài nầy là ĐÔNG CÚC có thể đây là hoa cúc nở muộn.
- Diên Niên 延年 : là Kéo dài suốt cả năm.
- Vãn Hương 晚香 : là Mùi hương muộn màng.
- Mạc Tiếu 莫笑 : là Chớ cười, chớ nhạo.
- Tranh Phương 爭芳 : là Tranh cái thơm cái đẹp. Đây là từ chỉ dành riêng cho Hoa và phái Nữ.
- Khẳng Nhượng 肯讓 : là Chịu nhường, là Chi nhường, là "Chưa chắc đã chịu nhường".
* Nghĩa Bài Thơ :
Cúc Mùa Đông
Đây là loại hoa được trồng quanh năm trong thư quán; Mùi hương muộn màng chỉ nở ra khi tuyết bắt đầu rơi. Chớ có cười nhạo là sao tranh thơm tranh đẹp muộn màng thế. Vì trước khi mùa xuân đến chưa chắc ta đã chịu nhường cái thơm cái đẹp nầy cho hoa mai đâu !
Tả hoa cúc, nhưng suốt bài thơ không có từ nào nhắc đến chữ CÚC cả !
Hoa Cúc là loại hoa thanh nhã cao khiết chỉ nở vào mùa thu trong gió thu hiu hắt, nổi tiếng nhờ có thể ũ thành Cúc tửu, gọi là Hoàng Hoa Tửu và nhất là được danh sĩ Đào Tiềm đời Tấn trồng khi ở ẩn, với các câu thơ : Thái cúc đông ly hạ, du nhiên kiến nam sơn 採菊東籬下,悠然見南山. Có nghĩa : "Hái cúc dưới giậu bờ đông, Xa xa ẩn hiện chập chùng Nam sơn". Cúc vốn chịu lạnh, nên hoa cúc nở kéo dài cho đến mùa đông, khi mai sớm đã bắt đầu khai nhụy. Và màu vàng của hoa cúc há dễ chiụ nhường cho màu vàng của hoa mai hay sao ?!
* Diễn Nôm :
ĐÔNG CÚC
Quanh năm trong quán được vun trồng,
Nở muộn hương nồng lúc tuyết đông.
Chớ nhạo muộn màng khoe sắc thắm,
Trước xuân chi chịu kém mai đông.
Lục bát :
Vun trồng trong quán quanh năm,
Nở ra trong tuyết âm thầm tỏa hương.
Chớ cười nở muộn tranh phương,
Đầu xuân há đã chịu nhường hoa mai.
Đỗ Chiêu Đức