Bài 3 trong chùm thơ Giao Hành tả lại cảnh mưa chiều tắt nắng với những đứa trẻ chăn trâu đang lùa trâu về băng qua những vũng nước, những người đi đò chiều tranh nhau qua đò, khói mây bay trong gió và tiếng lách tách trong bụi tre, tiếng quạ kêu rộn rã lúc chiều tàn :
牧童驅犢晚還莊, Mục đồng khu độc vãn hoàn trang,
迅歩行過水上塘. Tấn bộ hành qua thủy thượng đường.
叢笋雨來喧鎧甲, Tùng duẫn vũ lai huyên khải giáp,
湖菱波細露鋒鋩. Hồ lăng ba tế lộ phong mang.
數團煙逐溪風去, Sổ đoàn yên trục khê phong khứ,
一簇人争野渡忙. Nhất thốc nhân tranh dã độ mang.
惆悵鄕關何處是? Trù trướng hương quan hà xứ thị ?
寒鴉枯樹閙斜陽! Hàn nha khô thọ náo tà dương !
- Khu Độc 驅犢 : KHU 驅 có bộ MÃ là Ngựa bên trái, vốn có nghĩa là LÙA NGỰA; sau dùng chung để chỉ "Luà những con vật có bốn chân". ĐỘC 犢 là Con Nghé, chỉ chung các con trâu mới lớn. Nên KHU ĐỘC là Lùa trâu.
- Tấn Bộ 迅歩 : TẤN là Nhanh nhẹn; BỘ là Bước đi. Nên TẤN BỘ là bước nhanh, chỉ Đi một cách vội vã.
- Tùng Duẫn 叢笋 : TÙNG là Khóm, là Bụi. DUẪN là Măng non. nên Tùng Duẫn là Bụi tre non.
- Khải Giáp 鎧甲 : là Áo giáp có dát bạc dát đồng cho cứng. Trong bài thơ cụ Phan Thanh Giản mượn để diễn tả tiếng các cây tre cọ xát vào nhau nghe kẽo kẹt giống như là tiếng áo giáp va chạm nhau vậy.
- Phong Mang 鋒鋩 : PHONG là cái Chóp, cái Đĩnh, Cái Mũi. MANG là Bén, Nhọn, lấp lánh. Nên Phong Mang là cái mũi nhọn; trong bài thơ chỉ những búp hoa ấu còn chưa kịp nở.
- Sổ Đoàn Yên 數團煙 : là Mấy đám khói (sóng).
- Nhất Thốc Nhân 一簇人 : là Một đám người, một toán người.
- Trù Trướng 惆悵 : là Bồi hồi, Ngơ ngẩn.
- Náo 閙 : là Náo Loạn, là Ồn ào.
- Tà Dương 斜陽 : là Ánh nắng xiên; chỉ ánh nắng đã về chiều.
ĐI NGANG VÙNG NGOẠI Ô (3)
Mục đồng đang xua lũ trâu con trong buổi chiều tà để trở về thôn xóm, đang bước nhanh qua những vũng nước đọng ở trên đường. Bụi tre non sau cơn mưa đang kẽo kẹt trước gió như những manh áo giáp cọ vào nhau, bên hồ ấu những búp hoa ấu non nhọn và sắc đang nhấp nhô trong sóng nước trước những làn gió nhẹ lướt qua. Trên sông vài cuộn khói sóng lơ lửng theo gió bay đi, một đám người đang nhốn nháo tranh nhau qua đò để về nhà cho kịp tối. Lòng ta cảm thấy bồi hồi ngơ ngẩn tưởng nhớ đến quê hương giờ đang ở nơi đâu ? Tiếng lũ quạ lạnh đang kêu lên rộn rã trên các cành cây khô trong ánh nắng của buổi chiều tà !
Những hình ảnh hoạt động, những âm thanh sống động quen thuộc của vùng thôn dã Việt Nam được hiển hiện một cách rõ nét trong thơ của cụ Phan Thanh Giản trong những lần kinh lược từ nam ra bắc, tạo nên một sắc thái đặc biệt Việt Nam của những vần thơ Đường Luật với đầy đủ những âm hưởng và thi vị của những áng thơ Đường nổi tiếng, như câu :
惆悵鄕關何處是? Trù trướng hương quan hà xứ thị ?
日暮鄕關何處是? Nhật mộ hương quan hà xứ thị ?
trong bài thơ nổi tiếng Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu đời Đường. Và câu cuối...
寒鴉枯樹閙斜陽! Hàn nha khô thọ náo tà dương !
lại làm cho ta nhớ tới bài thơ Thiên Tịnh Sa -Thu Tứ 秋思 nổi tiếng của Mã Trí Viễn đời Nguyên là :
枯藤老樹昏鴉... Khô đằng lão thọ hôn nha...
斷腸人在天涯。 Đoạn trường nhân tại thiên nha !
Mây khô quạ ám cây già...
Nắng chiều ngã bóng tà tà về tây,
Chân trời đứt ruột người đây !
Trong suốt thời gian làm quan của cụ Phan Thanh Giản, trên những chặng đường bôn ba kinh lược, ông đã ghi lại những cảm xúc trong những cuộc hành trình : Gia Định, Bình Thuận, Khánh Hoà, Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng, Thuận Hoá, Quảng Trị, Quảng Bình, Ninh Bình, Thái Nguyên... Những bài thơ làm trong các hành trình đó, cảnh vật con người của từng địa phương, một phần được phản ánh dưới cái nhìn mới mẻ, thanh tân của ông một cách rất chân thành.
Đuổi trâu chiều xuống lẹ về làng,
Nhanh bước xuyên qua vũng nước ngang.
Kẽo kẹt gió lùa tre tiếng vọng,
Nhấp nhô sóng nước ấu hoa vàng.
Chập chờn khói sóng bay theo gió,
Nhốn nháo bến đò tất tả sang.
Quê cũ ngẩn ngơ chiều khuất bóng,
Cành khô quạ rộn nắng chiều tàn !
Chiều hoang nước đọng tư bề bước chân.
Tre làng rít tựa giáp ngân,
Nhấp nhô hoa ấu chập chờn sóng xao.
Trên sông khói sóng dạt dào,
Qua đò nhốn nháo tranh nhau những người.
Quê hương khuất bóng chiều rơi,
Nắng tàn tiếng qụa bồi hồi cây khô !