參差荇菜,左右流之。Sâm si hạnh thái, Tả hữu lưu chi.
THƠ HẠNH THÁI là bài thơ trong thiên "Chu Nam. Quan Thư 周南. 關雎" trong Kinh Thi đời nhà Chu tả mối tình tương tư giữa chàng trai và cô gái rất chân thực và thiết tha như sau :
參差荇菜,左右流之。 Sâm si hạnh thái, Tả hữu lưu chi.
窈窕淑女,寤寐求之。 Yểu điệu thục nữ, Ngụ mị cầu chi.
求之不得,寤寐思服。 Cầu chi bất đắc, ngụ mị tư phục.
悠哉悠哉,輾轉反側。 Du tai du tai, Triển chuyển phản trắc
Có nghĩa :
So le rau Hạnh, phải trái xuôi dòng.
Yểu điệu thục nữ, đêm nhớ ngày mong.
Cầu mà chẳng được, thức ngủ nhớ mong.
Dài thay dài thay, trăn trở mấy vòng !
Lục bát :
Kìa xem rau hạnh so le,
Theo nước trong xè phải trái chảy đi.
Cô em yểu điệu nhu mì,
Ngày mong đêm nhớ kể gì thời gian.
Cầu mà chưa được chẳng an,
Thức ngủ mơ màng đêm nhớ ngày mong.
Dài ghê đêm tối mông lung,
Nằm mãi trong mùng trăn trở trở trăn !
Sau bài thơ nầy thường dùng để chỉ lứa đôi kết hợp một cách tốt đẹp, như trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Phương Hoa-Lưu Nữ Tướng" của ta có câu :
Đợi ngày phượng phản vân trung,
Ngân THƠ HẠNH THÁI dắng cung sắt cầm.
THƠ TỨ HỶ là bài thơ nói về bốn điều vui mừng nhất của ngày xưa, còn được gọi là bài thơ Tứ Khoái như sau :
Cửu hạn phùng cam vũ, 久 旱 逢 甘 雨,
Tha hương ngộ cố tri, 他 鄉 遇 故 知.
Động phòng hoa chúc dạ, 洞 房 花 燭 夜,
Kim bảng quải danh thì . 金 板 掛 名 時.
Có nghĩa :
- Trời hạn hán lâu ngày, gặp được trận mưa rào(ngọt) đổ xuống.
- Ở nơi xa quê hương mà gặp được người quen cũ.
- Đêm động phòng hoa chúc khi ta kết hôn.
- Khi được treo tên trên bảng vàng, tức là khi thi đậu làm quan.
Hạn lâu, gặp được mưa rào,
Xa quê lại được chào người quen xưa,
Động phòng hoa chúc đêm mưa,
Bảng vàng bia đá cho vừa lòng em. !
Cũng trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Phương Hoa-Lưu Nữ Tướng" có câu :
Ngâm THƠ TỨ HỶ ngại ngùng,
Nghĩ câu kim bảng, động phòng tối nan !
Cũng trong truyện trên ta còn đọc được THƠ THẤT BẢO như sau :
Vẻ càn giải bóng đông cung,
Nghĩ THƠ THIÊN BẢO thong dong đời hằng.
Chương《Tiểu Nhã. Thiên Bảo 小雅·天保》trong Kinh Thi là các lời chúc phúc của bề tôi dành cho vua chúa ngày xưa, như :
天保定爾,亦孔之固。 Thiên bảo định nhĩ, Diệc khổng chi cố.
俾爾單厚,何福不除? Tỉ nhĩ đan hậu, Hà phước bất trừ ?
俾爾多益,以莫不庶。 Tỉ nhĩ đa ích, Dĩ mạc bất thứ !
Có nghĩa :
- Trời bảo hộ ngài bình an ổn định, ngôi vua được củng cố vững chắc.
- Khiến cho quốc gia hùng hậu, không có cái phước nào mà không có đâu ?
- Khiến cho quốc khố ngày càng gia tăng, không có gì là không phú túc cả !
Trời cao luôn phù hộ vua,
Ngôi cao bốn mùa củng cố an khang.
Quốc gia hùng hậu vững vàng,
Phước nào cũng hưởng còn toan điều gì ?.
Khiến cho giàu có kể chi,
Mong ước điều gì, điều đó có ngay !
Trong văn học cổ điển người ta thường dùng tích Thục Đế, Vọng Đế, Đỗ Vũ, Tử Quy hay Đỗ Quyên để nói lên việc nhớ nhung quê hương đất nước khi phải đi phiêu bạt nơi đất khách quê người. Trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du, lúc Kiều đờn cho Kim Trọng nghe khi Kim Kiều tái hợp có câu:
Khúc đâu êm ái xuân tình,
Ấy hồn Thục Đế hay mình Đỗ Quyên ?
...là lấy điển tích từ vị vua nước Thục này qua câu thơ trong bài thơ Cẩm Sắt 錦瑟 của Lý Thương Ẩn đời Đường là :
Thục Đế xuân tâm hóa Đỗ Quyên, 蜀帝春心化杜鵑。
Trong thơ Nôm "Tứ Thời Khúc Vịnh" của Hoàng Sĩ Khải cũng nhắc đến Chim Đỗ Vũ kêu vào đầu mùa xuân đến cuối mùa hạ như sau :
Cớ chi mày, hỡi con Đỗ Vũ,
Quyến xuân về lại rủ hè sang.
Trong tuyện thơ Nôm khuyết danh "Trinh Thử" cũng có câu :
Kẻo lòng tơ tưởng mơ màng,
Khỏi hồn Thục Đế, khỏi lòng Đỗ Quyên.
Còn trong Cung Oán Ngâm Khúc, Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều cũng nhắc đến Chim Đỗ Quyên bằng tên Chim Quyên với Điệu Thương Xuân khi nàng cung nữ thất sủng nghe tiếng cuốc kêu :
Ai ngờ tiếng Quyên kêu ra rả,
Điệu Thương Xuân khóc ả sương khuê !
...và trong bài Qua Đèo Ngang bà Huyện Thanh Quan cũng đã hạ một đôi Luận để đời là :
Nhớ nước đau lòng con Quốc Quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
...và đến bài "Nghe Cuốc Kêu" của cụ Nguyễn Khuyến thì tiếng cuốc kêu mới thật sự bâng khuâng, khoắc khoải làm ngơ ngẩn lòng người nhất là những ai đang xa quê hương lưu lạc gởi thân nơi xứ lạ quê người như chúng ta hiện nay :
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ.
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi?
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Ban đêm róng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.
THÚC QÚY 叔季 là nói gọn lại của THÚC THẾ 叔世 và QÚY THẾ 季世. Có nghĩa là "Đời suy và Đời cuối", có xuất xứ từ câu nói của một Kinh Học Gia (Như Nhà Kinh Tế Học hiện nay) trong Tả Truyện 左傳 đời Đông Hán là Phục Kiền 服虔 như sau :"Chính suy vi THÚC THẾ, Thúc thế du ư QÚY THẾ, Qúy thế bất năng tác TÍCH dã. 政衰为叔世,叔世逾于季世,季世不能作辟也". Có nghĩa : "Chính trị suy đồi gọi là THÚC THẾ; Thúc Thế đưa đến QÚY THẾ là đời cuối cùng, nên Qúy Thế là không thể làm VUA được nữa". Vì thế THÚC QÚY thường dùng để chỉ thời buổi loạn lạc suy vi của môt triều đại nào đó.
Trong truyện thơ Nôm "Lục Vân Tiên" của cụ Nguyễn Đình Chiểu có câu :
Ghét đời THÚC QÚY phân băng,
Sớm đầu tối dánh lằng nhằng rối dân.
THỤC ĐẾ 蜀帝 là Ông vua nước Thục. Theo như tích sau đây :
Theo sách Sưu Thần Ký thì Đỗ Vũ là tên một vị vua nước Thục (tỉnh Tứ Xuyên ngày nay) thời Chiến Quốc, ông có tính hoang dâm vô độ nên dưới thời ông làm vua chính sự nước Thục không ổn định. Đỗ Vũ nhân nhà Chu suy yếu bèn tự xưng đế hiệu là Vọng Đế (望帝), vì là vua nước Thục, nên còn gọi là Thục Đế. Ông từng thông dâm với phu nhân của vị tướng quốc lúc bấy giờ là Biết Linh (鳖灵), sau chuyện bị lộ, nên Đỗ Vũ thẹn quá bèn nhường ngôi cho vị tướng quốc này, và vì trước đó Biết Linh cũng đã có công trị thủy, cứu nước Thục khỏi cảnh lũ lụt thiên tai. Tuy nhiên sau khi nắm trong tay quyền lực thì Biết Linh ngược đãi Đỗ Vũ, cấp lương thực không đầy đủ khiến ông phải hậm hực mà bỏ nước ra đi, sau khi ông chết linh hồn hóa thành một loài chim suốt ngày chỉ kêu "quốc, quốc" (cuốc cuốc). Người ta bảo đấy là Thục Đế nhớ nước nên mới kêu như vậy, và dân gian đặt tên cho giống chim đó là Tử Quy, là Đỗ Quyên, mà ta gọi là con chim Cuốc.
Hẹn bài viết tới !
THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 110 : THÙY, THUYÊN, THUYỀN, THƯ, THỬ
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức