過平渡 QUÁ BÌNH ĐỘ
回峰亂嶂不知年, Hồi phong loạn chướng bất tri niên,
三萬浮生轉燭天。 Tam vạn phù sinh chuyển chúc thiên.
誰是詩眸凝佇處, Thùy thị thi mâu ngưng trữ xứ ?
京師正在夕陽邊。 Kinh sư chính tại tịch dương biên !
* Chú thích :
- QÚA BÌNH ĐỘ 過平渡 : Đi ngang qua bến Bình Độ.
- Hồi Phong Loạn Chướng 回峰亂嶂 : Núi non chằng chịt chập chùng hiễm trở.
- Tam Vạn Phù Sinh 三萬浮生 : TAM VẠN 三萬 là nói gọn của TAM VẠN LỤC THIÊN 三萬六千 là Ba vạn sáu ngàn ngày, chỉ một trăm năm, là đời sống dài nhất của một đời người; còn PHÙ SINH 浮生 là từ của Đạo Gia, Trang Tử 莊子 cho là cuộc sống của người đời vốn trôi nổi vô định; Đạo Phật cũng nói là chúng sinh đều đang chìm nổi trong bể khổ. Nên TAM VẠN PHÙ SINH là chỉ "Kiếp sống trôi nổi của một đời người!".
- Chuyển Chúc Thiên 轉燭天 : CHÚC là ngọn đuốc, nên CHUYỂN CHÚC THIÊN là ngọn đuốc xoay chuyển theo chiều gió ngoài trời, không biết là sẽ tạt về phía nào; Ý chỉ cuộc sống của một đời người là vô định vô thường. Câu nầy lấy ý của một câu trong bài thơ GIAI NHÂN của Đỗ Phủ đời Đường là "
萬事隨轉燭 Vạn sự tùy chuyển chúc
Có nghĩa :
Muôn việc đều tùy theo sự xoay chuyển của ngọn đuốc.
- Thi Mâu 詩眸 : là con mắt của hồn thơ, của nhà thơ.
- Ngưng Trữ 凝佇 : là ngưng đọng lại, dừng lại ở đâu đó.
* Nghĩa bài thơ :
QUA BẾN BÌNH ĐỘ
Những dãy núi cao chằng chịt chập chùng hiễm trở không biết đã có từ năm nào; Làm cho người ta cảm thấy đời người ba vạn sáu ngàn ngày càng nổi trôi vô thường hơn như ngọn đuốc trước gió không biết sẽ cháy về hướng nào. Ai mới là nơi làm cho con mắt của nàng thơ ngưng đọng lại ở nơi đó đây ? Chính là đất kinh sư nơi mà ánh nắng chiều đang chiếu rọi bên kia kià !
* Diễn Nôm :
QUÁ BÌNH ĐỘ
Núi non hiểm trở biết bao ngày,
Ba vạn phù sinh lửa đuốc bay.
Ai đó hồn thơ còn quyến luyến ?
Kinh sư nơi ấy nắng chiều lay !
Lục bát :
Núi non hiễm ác bao năm,
Phù sinh ba vạn như cầm đuốc chơi.
Ai người thơ thẩn là nơi,
Kinh sư nắng chiếu bên trời hoàng hôn !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm