Bản chữ Hán cổ của bài thơ :
題金陵渡 ĐỀ KIM LĂNG ĐỘ
金陵津渡小山樓, Kim Lăng tân độ tiểu sơn lâu,
一宿行人自可愁. Nhất túc hành nhân tự khả sầu.
潮落夜江斜月裡, Triều lạc dạ giang tà nguyệt lí,
兩三星火是瓜州. Lưỡng tam tinh hỏa thị Qua Châu.
張祜 Trương Hỗ
NGHĨA BÀI THƠ :
CẢM ĐỀ BẾN ĐÒ KIM LĂNG
Trên cái lầu nhỏ cao cao trên triền núi của bến đò Kim Lăng, khách trọ qua đêm ở đây tự nhiên sẽ cảm thấy có một nỗi buồn len nhè nhẹ vào lòng. Trong cảnh đêm khi nước thủy triều đang xuống dưới ánh trăng mờ nghiêng nghiêng mờ chiếu, thấp thoáng hai ba đóm lửa đèn nhà ai như những vì sao lạc kia, chính là bến đò Qua Châu đối diện đó vậy !
DIỄN NÔM :
Kim Lăng bến nước cạnh đồi cao,
Lữ khách qua đêm tự cảm sầu.
Triều xuống trăng mờ chênh chếch chiếu,
Lặp lòe đóm lửa ấy Qua Châu !