Dịch Nghĩa :
Chiếc thuyền con lướt gió trên dòng sông bát ngát
Non xanh nước biếc lại thêm mùa thu
Vài tiếng sáo làng chài ngoài khóm lau
Trăng rơi đáy sóng , mặt sông sương đầy
Dịch thơ
Đi Thuyền
Theo gió thuyền con nước lững-lờ,
Non xanh nước biếc nắng thu mơ ,
Thuyền chài tiếng sáo vờn lau-lách ,
Trăng rụng sương giăng sóng nước mờ .
Mailoc
2. 泛舟
小艇乘風泛渺汒,
山青水綠又秋光。
數聲漁笛蘆花外,
月落波心江滿霜。
Phiếm chu
Tiểu đĩnh thừa phong phiếm diểu mang,
Sơn thanh thuỷ lục hựu thu quang.
Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại,
Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương.
CHÚ THÍCH :
PHIẾM CHU 泛舟 : PHIẾM có 3 chấm thủy một bên, nên có nghĩa là TRÔI NỔI. CHU là Ghe Xuồng. PHIẾM CHU là Để mặc cho chiếc Thuyền trôi nổi trên sông. Trong bài TIỀN XÍCH BÍCH PHÚ mở đầu bằng câu : " Nhâm Tuất chi thu, thất nguyệt kí vọng, Tô Tử dữ khách PHIẾM CHU..." là chữ PHIẾM CHU nầy đó.
CÂU 1 : Tiểu đĩnh thừa phong phiếm diểu mang.
TIỂU ĐĨNH : là Chiếc Thuyền nhỏ. THỪA PHONG : là Cỡi gió, là Đón gió. PHIẾM là Trôi nổi. DIỂU MANG : là Mênh mông Vô tận. Câu 1 có nghĩa :
" Chiếc thuyền con trôi nổi theo chiều gió trên dòng nước mênh mông vô tận ".
CÂU 2 : Sơn thanh thuỷ lục hựu thu quang.
SƠN THANH : là Núi Xanh. THỦY LỤC : là Nước Xanh. HỰU là Lại. THU QUANG : là Quang cảnh Mùa Thu. Câu 2 có nghĩa :
" Lại cũng quang cảnh của mùa thu với núi xanh nước biếc ".
CÂU 3 : Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại,
SỔ THANH : SỔ là Một Vài. SỔ THANH là Một vài âm thanh, là Một vài tiếng. NGƯ 漁 nầy có 3 chấm Thủy, có nghĩa : Thuộc Về Cá, nên NGƯ ĐỊCH : là Tiếng Sáo của những người đánh cá. LÔ HOA : là Hoa Lau Hoa Sậy. NGOẠI : là bên ngoài, phía ngoài. Câu 3 có nghĩa :
" Ngoài xa của đám hoa lau là tiếng sáo vẳng đưa của các dân chài ". ( Tiếng sáo không thể đếm được, nên không thể nói là MỘT VÀI tiếng sáo. Vì tiếng sáo trên sông vẳng đưa theo gió nên nghe khi được khi mất. Chớ không phải có NHIỀU NGƯỜI thổi sáo ! Chữ SỔ được thoáng dịch là Văng Vẳng là vì thế ! ).
CÂU 4 : Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương.
NGUYỆT LẠC : là Trăng lặn. BA TÂM : là Giữa lòng sóng. GIANG MÃN SƯƠNG : là Sông đầy cả sương. Câu 4 có nghĩa :
" Khi trăng lặn xuống giữa lòng sóng nhấp nhô ( ở tận chân trời ) thì sương cũng xuống tràn ngập cả dòng sông.
DIỄN NÔM :
THẢ THUYỀN
Thuyền con trôi nổi gió xuôi dòng,
Nước biếc núi xanh thu mênh mông.
Tiếng sáo vẳng đưa bờ lau sậy,
Sóng dìm trăng lặn móc đầy sông !
Đỗ Chiêu Đức
Trên Thuyền
Chiếc thuyền con chở theo người hồ hải,
Gió se se rời khỏi khóm lau xanh.
Con nước tối chung quanh chừng bát ngát,
Một cánh cò giữa trời nước thanh thanh !
Đỗ Chiêu Đức
Dịch Nghĩa: Trong Thuyền
Kẻ đang phiêu bạt biển hồ, ngồi trên con xuồng mong manh như chiếc lá
Chống xuồng qua đám lau, nghe tiếng gió buồn buồn rên rỉ
Bốn phía mịt mù, trong khi con nước buổi chiều đang lên
Giữa vùng trời và sông nước như liền nhau, xuất hiện một cánh chim hải âu trắng.
Diễn ý:
Từ bài Thơ Thiền này, Quên Đi nảy sinh liên tưởng:
Đây có phải là chiếc Thuyền không đáy của Tiếp Dẫn Tăng, và người khách là thầy trò Đường Tăng? Rời bến Lăng Vân, bỏ lại phía sau chốn mê, Tiếp Dẫn Tăng đưa thầy trò Đường Tăng sang đất Phật.
Dịch Thơ
Kẻ phiêu bạt ngồi trên xuồng nhỏ
Vượt ngàn lau trong gió thì thào
Chiều mờ con nước dâng cao
Giữa trời đất quyện hiện màu trắng âu.
Quên Đi