Bài viết về quyển " Điển Tích Chọn Lọc " của Mộng Bình Sơn....
Đọc quyển ĐIỂN TÍCH CHỌN LỌC ( ĐTCL ) của nhà văn Mộng Bình Sơn ( MBS ) do nhà Xuất bản TP. HCM ấn hành năm 1989, tôi thấy có rất nhiều, rất nhiều điểm để góp ý cùng tác giả và Nhà xuất Bản. Xin được trình bày sau đây :
A. VỀ CÁC TRUYỆN CỦA ĐIỂN TÍCH.
I. XA LẠ :
Nhiều câu truyện của các điển tích được nêu lên trong sách ĐTCL của nhà văn MBS , rất xa lạ và khác thường đối với độc giả, sách mang nhiều tính hư cấu tùy tiện và không phù hợp với tài liệu văn học. Xin được dẫn chứng như sau :
1. TRÚC MAI : Từ trang 9-12 sách ĐTCL đưa ra một truyện tình không biết ở thời nào của huyên Long Môn tỉnh Quảng Đông TQ để minh họa cho điển tích này. Một truyện tình rất ướt át và ủy mị giữa chàng trai có tên Lâm Bá Trúc và thiếu nữ tên Hoàng Kỳ Mai hoàn toàn xa lạ với văn học. Thay vì theo những điều có trong sách vở và theo chúng tôi được học từ nhỏ thì điển tích nầy như sau :
Trúc Mai là do thành ngữ " Thanh mai Trúc mã " xuất xứ từ 2 câu thơ trong bài " Trường Can Hành " của Lý Thái Bạch đời Đường như sau :
Lang kỵ TRÚC MÃ lai 郎骑竹馬來
Nhiễu sàng lộng THANH MAI 繞床弄青梅
Bài thơ kể lại mối tình cảm khắng khít của một đôi trai gái đã chơi đùa và quen nhau từ tấm bé, rồi lớn lên thành chồng vợ với nhau, cho nên thành ngữ Thanh Mai Trúc Mã dùng để chỉ những cặp vợ chồng đã quen biết nhau từ thuở nhỏ. Sau này dùng rộng ra để chỉ những người yêu nhau từ trước lâu rồi , sau đó mới lấy nhau. Từ đó, từ TRÚC MAI còn để chỉ tình vợ chồng mà Nguyễn Du đã dùng để tả lúc Thúc Sinh chuộc Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh là :
Một nhà sum họp TRÚC MAI
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông
hoặc khi Thúc Sinh trở lại tìm Kiều :
Tưởng rằng MAI TRÚC lại vầy
Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau.....
Còn như muốn giúp độc giả rộng đường tham khảo thì có thể trích dịch toàn bài Trường Can Hành của Lý Bạch....
2. CHỈ HỒNG : Từ trang 179-188 , trong sách MBS đem chuyện của một chàng tên Chung Hạo nào đó lạ hoắc ở đời Đường, rồi được chấp vá, hư cấu... và cuối cùng kết thúc bằng một bài thơ tứ tuyệt không liên quan gì đến Chỉ Hồng và Nguyệt Lão cả !. Điển tích Chỉ Hồng ( hoặc Tơ Hồng, Chỉ Thắm, Xích Thằng... ) có liên quan đến điển tích Nguyệt Lão hay Nguyệt Hạ Lão Nhân ( Ông già dưới trăng ) để chỉ sự xe duyên , mai mối trong việc hôn nhân mà trong Tục U Quái Lục có ghi rõ. là chuyện của chàng thư sinh tên Vi Cố, chứ không phải Chung Hạo... Truyên của Vi Cố được kết thúc bằng một di tích lịch sử nổi tiếng là Miếu Nguyệt Lão tại Hàng Châu hiện nay với đối câu đối bất hủ :
Nguyện thiên hạ hữu tình nhân, đô thành liễu quyến thuộc,
願 天 下 有 情 人,都 成 了 眷 屬
Thị tam sanh chú định sự, mạc thác quá nhân duyên.
是 三 生 註 定 事,莫 错 過 姻 缘.
Nghĩa :
Mong cho người hữu tình trong thiên hạ đều thành nên gia thất,
Chuyện ba sinh đà định sẵn, đừng để lỡ mất nhân duyên.
Điển tích Chỉ Hồng từ lâu trong các sách văn học phổ thông đều viết khá rõ ràng, chứ đâu có kiểu chấp vá hờ hững như trong sách ĐTCL của MBS.
3. LÁ THẮM : Từ trang 189-191 sách ĐTCL của MBS viết : " Điển tích Lá thắm lấy ở trong truyện Tình Sử Trung Quốc, diễn tả mói tình ngăn cách giữa nho sinh Kim Ngọc và tiểu thư Kiều Nga ". Hai người một ở trong thành, một ở ngoài thành. Vì giặc cướp ngăn cách cho nên thường xuyên gởi thơ cho nhau bằng cách viết lên lá rồi thả theo dòng sông từ ngoài thành chảy vô trong thành !. Thật hết sức lạ lùng !. Những điều MBS kể hoàn toàn khác hẵn với các tài liệu văn học và thư tịch xưa nay. Theo như chúng tôi được học từ nhỏ ở trường, thì điển tích nầy có 3 tài liệu khác nhau như sau :
- Theo Thị Nhi Tiểu Danh Lục.
- Theo sách Văn Khê Hữu Nghị.
- Theo Thanh tỏa Cao Nghi và Thái Bình Quảng Ký.
.... thì không có điển tích nào giống như câu truyện mà MBS đã kể trong sách ĐTCL của ông cả !
Từ trước đến nay, trong nhà trường giảng về điển tích Lá Thắm là theo truyện của thư sinh Vu Hựu và cung nhân Hàn Thị ở trong cung vua, rất thi vị với những bài thơ đề trên lá đỏ như :
Lưu thủy hà thái cấp 流 水 何 太 急
Cung trung tận nhật nhàn 宫 中 盡 日 閒
Ân cần tạ hồng diệp 殷 勤 謝 红 葉
Hảo khứ đáo nhân gian 好 去 到 人 間
Nghĩa :
Nước chảy sao vội thế !
Trong cung suốt buổi nhàn
Ân cần nhờ lá đỏ
Chảy đến với nhân gian.
và đôi câu đối của Vu Hựu gởi theo dòng nước vào cung là :
Tằng văn diệp thượng đề hồng oán 曾聞葉上题红怨
Diệp thượng đề thi ký a thùy ? 葉上题詩寄阿誰 ?
Nghĩa :
Từng nghe trên lá đề thơ oán
Trên lá đề thơ gởi đến ai ?
Cuối cùng lại được minh họa bằng một bài thơ Thất ngôn Tứ tuyệt thật độc đáo của thi sĩ Cố Huống đời Đường như sau :
Hoa lạc thâm cung oanh diệc bi 花落深宫鶯亦悲
Thượng Dương cung nữ đoạn trường thì 上陽宫女斷腸時
Quân ân bất bế đông lưu thủy 君恩不閉東流水
Diệp thượng đề thi ký dữ thùy ? 葉上题詩寄與誰?
Nghĩa :
Hoa rụng thâm cung oanh cũng sầu
Thượng Dương cung nữ quặn lòng đau
Ân Vua không bế dòng sông chảy
Trên lá đề thơ gởi đến đâu ?
Nhưng dù kể theo tài liệu nào đi nữa, thì vẫn là truyện của một thư sinh thi sĩ và một cung nhân trong cung vua, chớ không phải là một truyện tình vu vơ của chàng Kim Ngọc và tiểu thư Kiều Nga nào đó như ông MBS đã kể.
II. THÊM TÌNH TIẾT và VIẾT THEO Ý RIÊNG :
Một điều đáng nói nữa là MBS đã tự ý thêm thắt quá nhiều chi tiết cho các câu truyện của các điển tích. Việc thêm mắm dặm muối cho câu truyện kể đậm đà hơn, hấp dẫn hơn là truyện thường tình, nhưng thêm thắt làm cho câu truyện xa rời nguyên tác là điều nên tránh, nhất là thêm thắt để cho câu truyện ướt át hơn, ủy mị hơn là chuyện không bao giờ cho phép nhà nghiên cứu, biên khảo làm. Quyển ĐTCL của MBS đã phạm phải hết những điều hệ trọng này. Cụ thể như sau :
1. Điển ĐỒNG TƯỚC : từ trang 13-16, đó là đoạn đối đáp giữa Khổng Minh và Chu Du, hoàn toàn do hư cấu của MBS, nên khi đọc xong, người đọc thấy rằng Khổng Minh đã quá hời hợt và thiếu cơ trí chứ không phải như La Quán Trung đã viết về Khổng Minh.( không thể trích lại của ĐTCL vì quá dài ). Từ đó thấy được tài hư cấu tầm thường của MBS trong một tác phẩm gọi là " chọn lọc ". Khuyết điểm này còn được thấy ở các điển tích Bá Nha Tử Kỳ ( trang 60-76 ), Đằng Vương Các ( trang 160-164 ), Lam Kiều ( trang 28-35 )......
2. Hầu hết các điển tích có chuyện trai gái yeu nhau như Trúc Mai, Má Đào, Khối Tình, Lam Kiếu, Bể Dâu, Ba Đào, Gieo Cầu.... là MBS vận dụng hết các từ ướt át, ủy mị để tả cảnh gợi tình, nói lên cái tâm lý yêu đương đắm đuối vì tình. Rất tiếc là đầy rẫy cả trong sách nên không thể trích ra hết được. Chúng tôi có cảm tưởng khi đọc những điển tích gọi là " chọn lọc ", thì thực tế là những chuyên chọn lọc về tình yêu sướt mướt, hoặc những chuyện tình lãng mạn, chứ không phải là Điển tích Văn học Chọn lọc trên tinh thần văn học khoa học nghiêm chỉnh.
III. LỆ THUỘC, GƯỢNG ÉP :
1. Lệ Thuộc : Đành rằng Văn học Việt Nam gắn bó mật thiết với Văn Học Trung Quốc, nên phần lớn các Điển tích, thành ngữ cố sự trong văn học cổ của ta đếu bắt nguồn từ văn chương Trung Hoa, nhưng không phải vì vậy mà chúng ta không có Cái Riêng của ta, như :
a.). Khối Tình : Từ trang 36-45 sách ĐTCL, MBS viết " Điển tích Khối Tình lấy ở truyện Trương Chi Mị Nương. Tình sử Trung Hoa chép : Vào đời Đường có một vị đại thần sanh được một người con gái rất đẹp tên Mị Nương....". Trời đất ! Theo chúng tôi và có lẽ rất nhiều người khác cũng biết, thì " chuyện tình Trương Chi Mị Nương " cũng như " Chuyện tình Lan và Điệp " là những chuyện tình thuần túy Việt Nam. Chỉ đồng ý với MBS điển tích Khối Tình là do chuyện tình giữa Trương Chi và Mị Nương mà ra, nhưng nói Trương Chi Mị Nương là người Tàu đời Đường, thì điều nầy chúng tôi mong ông MBS hãy " Sưu tra lại Sơ yếu Lý lịch " của hai người nầy xem hư thực ra sao ? Điển tích Khối Tình mà mang cái " mát " ( made ) nhà Đường, thì e rằng sẽ như Cụ Nguyễn Du đã viết là :
" Khối tình ( sẽ ) mamg xuống tuyền đài ( mà còn ) chưa tan " đó nhé !
b.). Ba Đào : Từ trang 197-203 sách ĐTCL của MBS...
Theo chúng tôi biết thì hai câu đối nổi tiếng : " Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách, Sắc bất ba đào dị nịch nhân " là câu đối của người Việt Nam làm ra. Đó là câu đối của Cụ Đàm Thuận Huy ( 1463-1528 ) ra cho học trò lúc tan học gặp trời đổ mưa khiến họ không ra về được. Nguyên vế ra là :
Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách 雨無钳锁能留客
Cậu học trò Nguyễn Giản Thanh ( 1481-... ) đối ngay rằng :
Sắc bất ba đào dị nịch nhân 色不波涛易溺人
Cụ khen hay, nhưng lại thở dài, vì Cụ biết rằng với tài học nầy tương lai sẽ đỗ cao, nhưng lại sẽ bị lụy vì nữ sắc ! Sẵn nói thêm là trong đám học trò còn có một người đối là :
Nguyệt hữu loan cung bất xạ nhân 月有彎弓不射人
Cụ lại khen là người nhân hậu, tất được hưởng phước về sau.....
Sỡ dĩ phải nói dài dòng văn tự như thế là để chứng minh chắc chắn rằng : Câu đối trên là của người Việt Nam làm ra, chớ không phải của người Tàu. Trước đây nhiều vị dạy học người Hoa và cả giáo sư Lý Văn Hùng, một học giả người Hoa viết nhiều về văn học Việt Nam, cũng xác định câu đối trên là của người Việt. Không biết ông MBS đã dựa vào tài liệu nào mà dám khẳng định câu đối trên xảy ra ở đời vua Huệ Đế nhà Minh bên Tàu. Như thế có gượng ép lắm không ?
2. GƯỢNG ÉP :
Như trên đã nêu, MBS đã gượng ép một cách tùy tiện, ông cứ gán đại cho một câu truyện nào đó cho một tác giả người Tàu xa xôi nào đó để bịp độc giả . Việc làm quá trắng trợn và thô bạo trong nhiều truyện, chẳng hạn như trong điển tích Tường Đông ( trang 165-178 ) , MBS đã trích truyện " Vương Kiều Loan bách niên trường hận " trong sách Kim Cổ Kỳ Quan, ròi thay đổi tên của nhân vật nam chính trong truyện là Chu Đình Chương thành Tống Ngọc. Đây quả là việc làm táo tợn không coi ai vào đâu hết. Truyện Vương Kiều Loan xảy ra vào đời nhà Minh ( thế kỷ XV ) lại được ghép cho Tống Ngọc, người nước Sở thời Chiến Quốc ( thế kỷ thứ IV trước Công nguyên ). Hai nhân vật chính trong truyện cách nhau gần 2 nghìn tuổi. Cô Vương Kiều Loan đã ôm mối trường hận rồi, nếu bây giờ biết mình bị ông MBS ép gả cho Tống Ngọc lớn hơn mình gần 2000 tuổi, thì không biết cô sẽ còn hận đến cở nào nữa đây !
Thực ra Tường Đông là do từ Đông Lân mà có. Đó là một Thành Ngữ hơn là một Điển Tích, phát xuất từ một câu trong sách Mạnh Tử là : " Du đông lân nhi lâu kỳ xứ nữ ", có nghĩa là " Trèo qua tường phía đông để chọc ghẹo con gái bên đó ", và một câu trong thơ cổ là " Đông lân Tống Ngọc tường " , nghĩa là Tường Tống Ngọc phía xóm đông, cũng hàm một nghĩa như câu trên.
Ngoài ra, còn một số " điển tích " khác trong sách ĐTCL, nhưng sự thật chúng chỉ là những từ ngữ hoặc thành ngữ mà thôi. Các từ ngữ thành ngữ này được MBS coi là điển tích, rồi mượn đại một câu truyện nào đó trong Thần Tiên Truyện, Kim Cổ Kỳ Quan, Tam Ngôn Truyện....ghép một cách gượng ép vào mà thôi.
B. SAI SÓT VỀ KIẾN THỨC, KỸ THUẬT :
I. KIÊN THỨC :
Theo thiển ý, ĐTCL cần phải khoa học, cẩn thận và nghiêm chỉnh trong việc biên soạn, để quyển sách có tác dụng tốt. Ông MBS đã tùy tiện, cẩu thả trong việc làm nầy, thí dụ như :
1.) Trúc Mai : Đã được đề cập ở trên trong trang 11, MBS đã giải thích về Lâm Bà TRúc như sau : " Tác phong mềm mại như cây trúc... ". Người xưa ví Nho sinh với cây trúc vì trúc được khen tặng là Tiết Trực Tâm Hư 節直心虚 ( Mắt tre mỗi lóng đều thẳng, và trong ruột thì bọng thang ) để biểu tượng khí tiết của bậc Nho sĩ chân chính, của người Quân Tử. Chứ không phải như MBS đã nghĩ.
2.) Đồng Tước : trang 16, MBS viết : " Về sau Đỗ Phủ tức Mục Chi... ". Đỗ Phủ tự là Tử Mỹ, chứ không phải Mục Chi. Còn bài Xích Bích Hoài Cổ được MBS trích trong sách nầy để nói về điển tích Đồng Tước là của Đỗ Mục ( tự là Mục Chi ) chứ không phải của Đỗ Phủ. Sự lẫn lộn nầy đưa tới việc " Râu ông nọ cắm càm bà kia ". Thơ của Đỗ Mục thành thơ của Đỗ Phủ, tên tự của Đỗ Mục cũng thành tên tự của Đỗ Phủ luôn !
3.) Chỉ Hồng : Trang 181, MBS đã lẫn lộn giữa giống đực và giống cái. Thay vì Vi Cố gặp Nguyệt Lão xe tơ dưới trăng, thì MBS lại cho cái anh chàng bá vơ Chung Hạo nào đó gặp một bà lão xe tơ dưới trăng, và bà nầy lại xưng rằng :...ta là Nguyệt Lão...( ? ). Thay vì Bà thì phải xưng là Nguyệt Bà chớ !
4.) Lầu Xanh, Lầu Hồng : Trang 312-314, MBS viết " Lầu xanh, Lầu Hồng, cả hai đều chỉ chỗ chứa gái giang hồ, đĩ điếm ". Đúng Lầu Xanh là nơi gái giang hồ ở, ai mà không biết ?. Còn ai bảo MBS Lầu Hồng là nơi chứa đĩ điếm ?! Lầu Hồng là chỉ nơi con gái con nhà quyền quý ở, như trong Truyện Kiều Nguyễn Du viết :
... Sinh đà về đến Lầu Hồng xuống yên...
Lầu Hồng là chỗ Hoạn Thư, con quan Lại Bộ , vợ của Thúc Sinh ở, chớ đĩ điếm nào mà ở đây. Ngay trong Bích Câu Kỳ Ngộ câu :
... Hồng Lâu Tử Các đâu mà đến đây ?...
Không lẽ một trang thanh niên thư sinh tuấn tú mới gặp mặt một tuyệt thế giai nhân là Giáng Kiều mà Tú Uyên lại hỏi : " Không biết nàng là gái giang hồ, đĩ điếm ở đâu tới đây vậy ? ". Chỉ có ông MBS mới hiểu và hỏi theo kiểu đó thôi !
Trang 313, MBS còn viết :" Một cuốn tiểu thuyết Trung Quốc có tựa đề Hồng Lâu Mộng, bên trong diễn tả sinh hoạt của con gái nhà vua ". Sai hoàn toàn ! Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần đâu có diễn tả sinh hoạt của con gái nhà vua ? Ông MBS nên đọc kĩ sách lại đi rồi hãy viết .
5.) Đồng Tước : trang 16 , Hai câu thơ trong bài Xích Bích Hoài Cổ, cặp chữ Xuân Thâm viết thành Thâm Xuân, làm khác nghĩa của câu thơ đi. Xuân Thâm là những mùa xuân thăm thẳm không biết đến bao giờ, còn Thâm Xuân là chỉ khoảng thời gian cuối mùa xuân. Cũng trong điển tích nầy, quân của Lưu Bị và Đông Ngô đốt của Tào Tháo 80 vạn quân, thì MBS chỉ ghi có 10 vạn. Trong điển tích Gương Vỡ Lại Lành, Tiết Nguyên Tiêu thì ghi là Tết Nguyên Đán. Trong điển tích Đông Sàng, trang 143-145, Tạ Đạo Uẩn thì ghi là Tạ Đào Uẩn, Vương Hi Chi thì viết là Vương Ngưng Chi.....
Những sai sót về kiến thức như đã nêu trên, nhiều vô kể không thể nêu hết ra đây được....
II. KỸ THUẬT :
Những sai sót về kỹ thuật cũng nhiều vô kể. Không thể đổ lỗi cho " thầy cò " sắp chữ, hoặc người sửa bản in được. Đó chính là sự cầu thả, tùy tiện cũng như xem thường độc giả của MBS.
1.) Trang 30 câu : " Nhất ẩm quỳnh tương bách CẢM sanh ", thì in là ...bách CẢNH sanh. Câu " Lam kiều bổn thị thần tiên QUẬT " thì in là.... thần tiên CHỐT.
2.) Trang 75, Câu " Thốt TOÁI dao cầm..." thì in là " Thốt ĐOÁI ..."
3.) Trang 86 , 2 câu " KÍNH dữ nhân câu khứ , KÍNH quy nhân bất quy " Cả 2 chữ KÍNH đều in thành ẢNH.
4.) Trang 158, Câu " Tòng Tư Liễu Khước oan gia trái " thì in là...LÒNG TỰ HIỂU KHUỐC... Câu thứ 3, in thiếu chữ " dữ ". Câu số 4 là " Phạ Nhĩ... thì in là PHỤ NHI "
5.) Trang 195 cũng thế, bài thơ tứ tuyệt mà in sai hết ba câu. Câu 1 chữ " Trục " in thành TRỰC. Câu 2 : " Lục Châu thùy lệ thấp la cân " thì in là " Lục Châu THÚY lệ THẤY la CÂU. Câu 3 : " Hầu môn nhất nhập thâm như hải " thì in là " Hầu môn Nhất THẬP NHÂM như hải ".
Những lỗi về in ấn như trên thật nhiều, cần phải có một bản Đính Chính dài mới nêu hết được. Đây không phải là lỗi của " Thầy cò " mà chính là lỗi của người biên soạn. Xin dẫn chứng câu thơ Nôm trong Truyện Kiều mà tác giả đã trích :
Sinh rằng gió mát trăng THANH
Bấy lâu nay một chút LÒNG chưa cam
Lẽ ra phải là :...gió mát trăng TRONG ( đúng nguyên tác ) và cũng mới ăn với vần LÒNG ở câu 8 bên dưới. Điều này cho thấy tác giả đã quá cẩu thả và tùy tiện, nên khi dẫn chứng các câu thơ Hán Việt, ông MBS mới tùy tiện như trên ta đã thấy, có lẽ ông nghĩ là không có ai biết được những từ Hán Việt đó. Cái cẩu thả, thiếu khoa học nầy cũng chứng tỏ thêm một điều nữa là thái độ xem thường, xem khinh độc giả của MBS chăng ?
C. SUY NGHĨ CỦA NGƯỜI VIẾT :
Như những nhận xét và phát hiện ở trên, chúng tôi không có ý bới lông tìm vết, nhưng đã đọc và thấy những sai sót nên đã nêu ra, nhiên hậu mới đề xuất ý kiến. Sỡ dĩ chúng tôi phải nói dài, nói dai về quyển ĐTCL nầy, vì thiển nghĩ : Một quyển sách mang tính giáo dục để người đọc TÌM HIỂU, HỌC TẬP và GIẢI TRÍ ( Ba tiểu tựa ghi ngoài bìa sách ) thì nó phải có một nội dung và kỹ thuật hoàn chỉnh để truyền thụ kiến thức một cách chính xác. Vì thế, sách đòi hỏi người biên soạn phải nhận rõ tầm quan trọng của việc mình làm, đồng thời cũng nhận rõ tác dụng của nó đối với xã hội. Nếu là một quyển tiểu thuyết thông thường thì tự nó sẽ có giá trị riêng của nó, nhưng đây là một sách công cụ giúp cho người đọc, người học. Tất nhiên dưới mắt công chúng nó phải có một tác dụng nhất định. Trái lại, tác hại của nó cũng sẽ to lớn và nguy hiễm vô cùng .
Thật vậy, nếu người biên soạn chịu khó cân nhắc và nghiêm chỉnh trong việc biên soạn, thì sách sẽ là một món quà quí giá. Chính vì vậy, khi viết bài nầy chúng tôi mong rằng ông Mộng Bình Sơn thông cảm cho nỗi khổ tâm của một người đọc sách khi phải làm cái việc " chẳng đặng đừng " nầy ! Trong quá trình nhận xét, đánh giá và phê bình, không tránh khỏi có những lời lẽ quá khích vì những sai lầm trắng trợn trong sách, xin thông cảm !
Lời thật dễ mất lòng, ngữa mong lượng thứ !
Bài viết trên đây đã được đăng trên tạp chí Bách Khoa Văn Học, số tháng 9 năm 1991. Sau khi bài được đăng, tôi luôn luôn ở tư thế sẵn sàng để đối thoại với ông Mộng Bình Sơn, và hồi họp chờ đợi những phản hồi của dư luận quần chúng. Nhưng, chờ, rồi chờ, chờ mãi mà chẳng có gì xảy ra hết. Nói theo kiểu của Công tử Hà Đông là ... Rồi những ngày như lá tháng như mây....vẫn trôi qua mà chẳng có mải mai động tịnh gì cả, kể cả Mộng Bình Sơn cũng êm hơi lặng tiếng luôn, tôi vô cùng thất vọng.....
Một năm sau, khoảng giữa năm 1992, một hôm ghé vào cửa hàng FAHASA ( cửa hàng Phát Hành Sách ). Tôi phát hiện quyển Điển Tích Chọn Lọc của Mộng Bình Sơn được tái bản. Tôi cầm quyển sách lên xem với tâm trạng bồi hồi xúc động, lòng thầm nghĩ : Để xem thử xem quyển sách đã được chỉnh sửa như thế nào, và những " công sức " đóng góp của mình đã có tác dụng tích cực ra sao !?. Nhưng, tôi hoàn toàn thất vọng !!!.... Mèo vẫn hoàn mèo, sách tái bản vẫn y khuôn như sách in lần đầu. Vậy là, chó sủa mặc chó.... Tái bản để hốt tiền thì vẫn cứ tiến bước....
Tôi vô cùng chán nản và thất vọng, vì những phát biểu của mình không ai thèm để ý tới thì ít, mà thất vọng chán nản rất nhiều vì thấy phong hóa xã hội ngày càng xuống cấp, những lời nói đúng đắn nghiêm chỉnh đã không có người chịu nghe.... Tôi ngao ngán rồi buông xuôi luôn....
Lại ,,, những ngày như lá tháng như mây..., Năm 1998, tôi theo diện ODP định cư ở Mỹ. Khoảng đầu thập niên của Thiên niên kỷ thứ Hai ngàn ( khoảng 2003-2004 gì đó ! ). Một hôm đang lái xe đến sở làm, mở đài phát thanh Little Saigon để nghe tin tức, lại nhằm tiết mục : " Cảo thơm lần giở trước đèn " đang đọc và giải thích về Truyện Kiều của Nguyễn Du cho tuổi trẻ hải ngoại biết đến những tác phẩm nổi tiếng của nước nhà. Tôi bàng hoàng xuýt trật tay lái khi nghe Nhà Kinh tế học, học giả Nguyễn Xuân Nghĩa giải thích về điển tích " Trúc Mai " như sau : "...Ngày xưa ở huyện Long Môn, tỉnh Quảng Đông Trung Quốc, có Nho sinh Lâm Bá Trúc và thiếu nữ Hoàng Kỳ Mai yêu nhau.... " Giống hệt giọng điệu của Mộng Bình Sơn... Ôi ! Thế thì Lý Bạch và Bài thơ Trường Can Hành của Thi Tiên đã đi đâu mất rồi ?!!!... Tôi càng bàng hoàng hơn, bàng hoàng đến tức giận, khi xem Paris by Night Thúy Nga 69 với chủ đề Nợ Tình. Nhà giáo, Nhà văn và là MC nổi tiếng thế giới là ông Nguyễn Ngọc Ngạn lại giải thích điển tích " Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan " , chuyện tình Trương Chi Mỵ Nương bằng tài liệu của Mộng Bình Sơn là : " Vào đời Đường có một vị đại thần sanh được một người con gái rất đẹp tên Mỵ Nương.... ". Thiệt là hết ý ! Sau giây phút ngỡ ngàng và tức giận, tôi cũng đành bùi ngùi chấp nhận sự thật phủ phàng ! Ông Mộng Bình Sơn ơi ! Bây giờ sự tác hại của ĐTCL mà ông biên soạn đã lan truyền khắp thế giới rồi, chuyện tình Trương Chi Mỵ Nương đẹp đẽ, thơ mộng của Văn học Việt Nam đã thành của Trung Quốc rồi ! Nghe nói ông là người xứ Bình Định, thế thì cái tinh thần Quang Trung Nguyễn Huệ của ông đã bỏ đi đâu mất rồi ? Ông Mộng Bình Sơn ơi !
Kính thưa Quý Thầy Cô và Các Bạn ,
Tôi rất chân thành gởi đến Quý Thầy Cô và Các Bạn bài viết nầy, có kèm theo Attachments của quyển ĐTCL của nhà văn MBS và bìa của số báo Bách Khoa Văn Học tháng 9 năm 1991, số có đăng bài viết nầy của tôi, để chứng minh là tôi nói thật. Rất Kính mong nghe được những ý kiến của Quý Thầy Cô và Các Bạn về sự việc nầy và đồng thời cũng xin Quý Vị cho biết ý kiến là : Bây giờ ta nên sử sự như thế nào, hay cứ mặc kệ buông xuôi ?!!!....
Đỗ Chiêu Đức xin ý kiến với tất cả thành tâm của mình, chớ không có lẫy hờn gì cả ! Lòng chỉ hằng mong : " Cái gì của CESA.... " , Thế thôi !
xin bấm xem bài viết khác :