望夫山 VỌNG PHU SƠN
劉禹錫 Lưu Vũ Tích
終日望夫夫不歸, Chung nhật vọng phu phu bất quy,
化為孤石苦相思。 Hóa vi cô thạch khổ tương ti (tư).
望來已是幾千載, Vọng lai dĩ thị kỉ thiên tải,
只似當時初望時。 Chỉ tự đương thời sơ vọng thì.
NGHĨA BÀI THƠ :
NÚI TRÔNG CHỒNG
Suốt ngày cứ mong ngóng chồng, nhưng chàng đâu có trở về đâu. Nên, hóa thành tượng đá cô đơn vẫn chưa hết sầu tương tư. Mong ngóng từ ấy đến nay cũng đã mấy ngàn năm rồi, mà lòng ngóng trông thì vẫn còn mong mõi như lúc ban đầu !
DIỄN NÔM :
NÚI VỌNG PHU
Mỏi mắt trông chồng chẳng thấy đâu,
Hóa thành tượng đá chữa thôi sầu.
Mỏi mòn trông ngóng ngàn năm đợi,
Nỗi nhớ còn nguyên tựa lúc đầu !
劉禹錫(公元772─842)字夢得,唐朝大詩人和文學家。他的詩通俗清新,精煉含蓄,善用比興手法,多有弦外之音。他以《竹枝詞》、《楊柳枝詞》和《浪淘沙》為名的三組組詩,富有民歌特色,是唐詩中別開生面之作。他的《烏衣巷》、《石頭城》和《柳枝詞》是傳世的精品,對後世的詩人和詞人很有影響。
LƯU VŨ TÍCH ( 772-842 ), tự là Mộng Đắc, là một Văn học Gia và là một Nhà Thơ lớn của đời Đường. Thơ của ông rất bình dân giản dị, nhưng lại rất thanh tân, sắc xảo à hàm súc, giỏi dùng phép tỉ hứng như trong ca dao, nên dễ đi sâu vào lòng người đọc. Ông giỏi về các thể thơ dân gian như " Trúc Chi Từ " ( Vè Cây Tre ), " Dương Liễu Chi Từ " ( Vè Nhánh Liễu ), " Lãng Đào Sa " ( Vè Sóng Vỗ Cát Trôi ) đều mang nặng đặc tính Dân Ca, là một trường phái đặc biệt và mang lại sinh khí mới cho thơ Đường, có ảnh hưởng rất lớn đến các thi nhân đời sau, như các bài " Ô Y Hạng ", " Thạch Đầu Thành ", " Liễu Chi Từ "...
SỰ TÍCH VỀ ĐÁ VỌNG PHU
Hòn Vọng Phu là chỉ những Hòn Đá có hình thù giống như là người thiếu phụ đứng chờ chồng, có chỗ còn có thêm hình dáng của đứa bé được ẵm trên tay. Dường như khắp nơi trên thế giới đều có, nhưng đi sâu vào lòng người, vào dân gian, thì chỉ ở Việt Nam và Trung Hoa mà thôi, có lẽ do lễ giáo phong kiến của Nho Gia muốn đề cao Tiết Hạnh của người phụ nữ mà ra chăng ?!
Ở Việt Nam ta trước đây nổi tiếng nhất là ở Đồng Đăng đã đi vào dân gian với câu ca dao bất hủ :
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa,
Có nàng TÔ THỊ, có chùa Tam Thanh.
Rất tiếc là hình tượng TÔ THỊ VỌNG PHU đã bị vỡ nát năm 1991 và một tượng bằng... Xi-Măng được thay vào... Ngoài ra, ta còn có :
* Hòn vọng phu trên đỉnh núi Bà, Bình Định, Việt Nam
* Hòn vọng phu trên đỉnh núi M'drak, Đắk Lắk
* Hòn vọng phu trên đỉnh núi Nhồi, Thanh Hoá
* Hòn vọng phu bên bờ khe Giai, bản Cơ Lêc, Nghệ An. Ca dao Việt Nam có câu:
Ngước mắt nhìn sang
Đá vọng phu ôm con trán ướt
Mắt đăm đăm nhìn nước sông Giai...
Còn ở Trung Hoa thì có :
▪Vọng Phu Sơn ở huyện Điện Bạch tỉnh Quảng Đông.
▪Vọng Phu Sơn ở TP Xích Bích tỉnh Hồ Bắc.
▪Vọng Phu Sơn ở Thái Sơn thuộc TP Thái An tỉnh Sơn Đông.
Vì vậy, mà Trung Hoa cũng có rất nhiều truyền thuyết về Hòn Vọng Phu, xin được giới thiệu 2 truyền thuyết sau :
TRUYỀN THUYẾT THỨ NHẤT :
Đời Tề Tuyên Vương của thời Chiến Quốc ( 320-302 trước Công Nguyên ), có một đôi vợ chồng trẻ, vừa mới kết hôn 3 ngày thì công sai của vua Tề bắt chú rể sung vào quân ngũ đưa ra sa trường đánh giặc. Nàng dâu mới đang ân ái mặn nồng chợt phải xa chồng khóc đến chết đi sống lại... những mong bạch đầu giai lão, nào ngờ phút chốc lại phải phân ly. Quá nhớ thương chồng nên mỗi ngày đều lên núi đứng ngóng trông, mong đợi chồng trở lại....Dần dần ngày lại qua ngày, năm lại qua năm, mặc cho mưa rơi nắng chiếu, mặc cho gió cuốn tuyết rơi... lâu ngày hóa đá, đứng sừng sững giữa trời mà mong đợi chồng về.
Truyền thuyết trên đây chỉ tượng đá trên Vọng Phu Sơn của tỉnh Sơn Đông, nhưng có thuyết lại cho rằng đây chính là nàng Mạnh Khương Nữ đứng ngóng trông chồng trước khi khóc sập Trường Thành của Tần Thủy Hoàng.
TRUYỀN THUYẾT THỨ HAI :
Đây là truyền thuyết mà dân gian thích kể cho nhau nghe nhất là : Tôn Phu Nhân khóc trông Lưu Bị đời Tam Quốc.
Sau khi hay tin Lưu Bị thất trận và chết ở thành Bạch Đế, Tôn Thượng Hương ( nhũ danh của Tôn Phu Nhân ) đã khóc hết nước mắt và hạ quyết tâm tìm chồng ở dưới cửu tuyền. Xuất phát từ kinh đô nước Ngô với đầy đủ nhang đèn dầu hương, hể đến núi nào cũng leo lên trông ngóng cúng tế kêu tên Lưu Bị mà khóc, vượt qua trên ngàn dặm đường, đến Hoa Dung Đạo thuộc Hoa Dung Huyện hiện nay, ráng leo lên tới đỉnh núi thì đã mệt lã, nhưng vẫn bày đồ cúng tế và khóc lóc thảm thương, tay bám và bấm đứt hết những lá trúc chung quanh, cho nên đến ngày hôm nay, tất cả những lá trúc trên núi nầy đều còn có phân nửa mà thôi ! khi xuống núi đến Đão Mã Nhai nơi mà Quan Vân Trường đã tha cho Tào Tháo, thấy phía trước mặt là Trường Giang cuồn cuộn, bèn ...
Đem mình gieo xuống giữa dòng Trường Giang...
(Kiều- Nguyễn Du )
Dân chúng thương cho sự tiết liệt chung thủy của Phu Nhân, nên lập miếu ở ven sông mà thờ. Vì Lưu Bị là Vua nên mới gọi là Nương Nương Miếu. Đỉnh núi mà Phu Nhân khóc Lưu Bị gọi là Đỉnh Vọng Phu.