Cuối tuần , theo lời hứa , xin trình bày về " Cuộc đời Tình ái và Hôn nhân của Tô Đông Pha " Sau đây. Mời Quý vị cùng đọc cho vui.....
如今~
她去、她亡、她逝、她死、徒留一首蝶戀花
後來~
蘇東坡將蝶戀花燒給了底下的她,從此不許人間再唱它
Như nay thì...
Nàng đã đi, đã xa, đã mất, đã qua đời... chỉ còn xót lại có một " Bướm vờn Hoa ".
Và sau này...
Tô đã hỏa phần " Bướm vờn Hoa " xuống với nàng, không để cho nhân gian được ngâm vịnh nó nữa !
Xem bài tiếng Việt bên dưới ....
蘇東坡一生與王姓女子情緣深厚,妻子王弗、繼室王閏之、侍妾王朝雲。此外,堂妹則是他少年時期所心儀的對象,然而同姓無法論及婚嫁,於是堂妹嫁給了柳仲 遠,蘇東坡一直將這份柔情埋在內心深處。多年後,聽到堂妹死訊,蘇東坡曾寫封信給堂妹的兒子形容自己「此心如割」;當他流放歸來,即使拖著病痛的身子,依 然到墓園去祭拜堂妹夫婦的英靈,淚溼衣襟。
18歲那一年,蘇東坡在父母安排下,娶了鄰近青神縣的王弗為妻。王氏,溫柔賢慧,每當蘇東坡讀書時,便隨侍在側、慇勤照拂,在為人處世方面,也會適時提醒 丈夫,二人情深意篤,恩愛有加。可是,年紀輕輕的王弗,在26歲花樣年華即香消玉殞,他悲痛的心情,實在難以言說。十年後,身在密州的蘇東坡(39歲)夢 見王氏,憶及昔日的恩愛情深,且有感十年來人生起伏的辛酸苦楚,遂寫下千古傳誦的悼亡詞《江城子》,以抒發胸中的鬱悶,細訴天人永隔的寂寥。
十年生死兩茫茫,不思量,自難忘。
千里孤墳,無處話淒涼。
縱使相逢應不識,塵滿面,鬢如霜。
夜來幽夢忽還鄉,小軒窗,正梳妝。
相顧無言,惟有淚千行。
料得年年腸斷處,明月夜,短松岡。
繼室王閏之,是王弗的堂妹,比蘇東坡小11歲。王弗仍在世時,由於蘇東坡經常造訪妻子娘家,與妻子的堂兄弟姊妹熟稔,王閏之從小對他極度崇拜,嫁給蘇東坡 後,撫養堂姊的遺孤及自己兩個孩子,成為他最活躍時期的伴侶,共度25個春夏秋冬。當王閏之走下人生舞台,蘇東坡寫了一篇古雅質樸的祭文,稱許她是個賢妻 良母,對前妻之子視如己出,分享其一生榮辱,心滿意足,約定自己死後要與她同葬於一個墓穴。
朝雲是蘇東坡繼室在他任職杭州通判時所買的一個丫環,當時朝雲才12歲,因家境貧寒,未曾讀書識字,蘇東坡對朝雲的愛護就像對自己孩子一樣,教她讀書識 字、彈琴吟詩。朝雲天性聰穎,善解人意,感受到蘇東坡雖學富五車但平易近人,因此對蘇東坡的照料特別細心。當「烏臺詩案」發生時,蘇東坡被捕入獄、蘇家被 抄得狼藉一片,面對無力回天的變故,17歲的朝雲只能一邊安慰王閏之,一邊照料著蘇東坡的兩個小兒子。謫居黃州初期,蘇東坡即使身為「罪臣」亦不畏強權, 依然為拯救溺嬰盡心盡力,深受黃州百姓由衷感激,其高尚人格與菩薩般心腸,讓朝雲打從心底對蘇東坡十分敬重,暗自決定此生要好好侍候這位心地善良的蒙難之 人……
朝雲對蘇東坡無微不至的貼心關懷,他自然心領神會,加以朝雲已長大成熟,亭亭玉立,於是,在生命最艱難的黃州時期,蘇東坡徵得王閏之同意,將朝雲正式納為 侍妾。後來朝雲替蘇東坡生了個兒子,取名遯兒,或許是有感於自己仕途坎坷,且為盛名所累而多災多難,蘇東坡在這個孩子出生滿月時,便寫了一首詩:人皆養子望聰明,我被聰明誤一生;唯願孩兒愚且魯,無災無難到公卿。令人遺憾的是,這份願望並沒有實現,當蘇東坡再次遭受貶謫,返京途中,未滿週歲的幼兒因旅途奔波致病,不幸夭折。此打擊為生命中不可承受之重,朝雲,悲不可抑,僵臥在床,水米不沾,哀痛過度的她,此後未再有生育。
蘇東坡晚年,新黨再度專權,更是屢遭貶黜,千里迢迢,備極艱辛。當他貶謫到惠州時已經57歲了,朝雲只有31歲,白髮紅顏,情深依舊。朝雲,清麗脫俗,冰 雪聰明,最是了解蘇東坡,一次,蘇東坡拍拍肚子問婢女:「妳們猜一猜我肚子裡是什麼?」有的說「全是文章」,也有人說「滿腹經綸」,只有朝雲說他「一肚子 不合時宜」!蘇東坡聽後樂不可支,深深覺得「知我者,唯有朝雲也。」
惠州顛沛流離的日子,朝雲始終與蘇東坡相伴,是他情意真摯的紅粉知己。有一天,東坡一時興起要朝雲唱他早年在密州任上所寫的一闋詞:
《蝶戀花》
花褪殘紅青杏小,燕子飛時,綠水人家繞。
枝上柳棉吹又少,天涯何處無芳草。
牆裡鞦韆牆外道,牆外行人、牆裡佳人笑。
笑漸不聞聲漸悄,多情卻被無情惱。
朝雲剛潤了嗓子準備展開歌喉,卻不禁聲音哽咽,潸然淚下,蘇東坡詫異地問她何以傷心落淚?朝雲回答:「我實在唱不出『枝上柳棉吹又少,天涯何處無芳草』如此傷感的句子呀!」蘇東坡笑說:「我正在悲秋,妳卻傷春起來了。」也就不再勉強朝雲。可是,朝雲又特別愛唱這闕詞,即使每次唱總是淚濕衣襟,依然如此。「枝上柳棉吹又少,天涯何處無芳草」,柳絮紛飛與芳草茂盛的景象,意謂著百花凋零,春天已經遠去。或許是朝雲將自身遭遇與這闕詞內容相連結,另一半屢遭貶官流徙,連幼兒也因此夭折,生命的春天彷彿離己甚遠,而蘇東坡對朝廷忠心、對百姓赤誠,卻落得不斷遠謫的下場,似乎也是「多情卻被無情惱」啊!
惠州時期,蘇東坡與朝雲一起研讀佛經和道家長生術,煉丹、釀酒、釣魚、遊歷等成了他們生活的全部。可惜,朝雲紅顏薄命,惠州瘴疫橫流,第二年她染疫不治,篤信佛教的她,臨終還念著金剛經上的四句偈語:「一切有為法,如夢幻泡影,如露亦如電,應做如是觀。」那一年,她才34歲。
心靈良伴朝雲之死,對飽經風霜年過花甲的蘇東坡而言,實屬嚴重打擊,其內心之悲痛和悽苦,難以言喻,在萬般無奈的孤寂之中,只有藉詩詞抒發自己情感,他寫 了一闋「西江月」,名為「詠梅」,實為悼亡之作。蘇東坡依朝雲遺願,將她葬於城西豐湖邊棲襌寺的松林裡,並建了一座「六如亭」(意謂如夢、如幻、如泡、如 影、如露、如電)以紀念朝雲。
《蝶戀花》是蘇東坡喜歡聽人吟唱的作品,朝雲死後他不忍再聽;豐湖是蘇東坡最喜歡的野宴場所,朝雲死後他不忍再去。不久,他被流放到海南島,這個島上什麼都沒有,蘇東坡形容「此間食無肉,病無藥,居無室,出無友,冬無炭,夏無寒泉,然亦未易悉數,大率皆無爾。唯有一幸,無甚瘴也。」沒有朝雲的日子,蘇東坡從此鰥居到老,最終仙逝於江蘇常州。
CHUYỆN TÌNH CỦA TÔ ĐÔNG PHA
Tô Đông Pha tên thật là Tô Thức, tự là Tử Chiêm, sinh năm 1036 (1), người huyện My Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, đỗ tiến sĩ năm 1057 dưới đời vua Tống Nhân Tông, là một trong bát đại gia Đường Tống (2). Thơ văn ông nổi tiếng một thời, không ai sánh kịp. Ông lại có tài hội họa và viết chữ rất đẹp. Hoạn lộ long đong, nhiều lần bị biếm.
Ông Tô có một cô em họ xinh đẹp, hiền hậu và thông minh, ông yêu quí lắm và nàng cũng rất yêu ông nhưng không cưới được vì bà con gần quá nên mẹ ông ngăn cản. Ông ân hận suốt đời vì điều đó bởi đây là mối tình đầu của ông.
Khi Tô Thức đã lớn, học giỏi, đủ sức đi thi thì cha mẹ lo cưới vợ cho ông (và cho cả em ông là Tô Triệt nữa) để có một nàng dâu ở trong miền vì e rằng nếu ông lên kinh thi đỗ thì sẽ bị các danh gia vọng tộc đem cái mồi vinh hoa phú quí ra nhử để gả con gái cho. Vợ ông họ Vương tên Phất, năm ấy ông mười tám tuổi và Vương Phất mười lăm.
Người Bạn Tình Chung
Nàng Vương là người vợ hiền, rất quí yêu chồng, thường đứng nép sau màn nghe chồng nói chuyện với khách và khuyên chồng nên xa lánh người này người khác :
- Người ấy luôn đón trước ý nhà để nói cho nhà vui lòng, giao du với họ chỉ mất thì giờ.
Hoặc nhắc nhở chồng :
- Nhà nên coi chừng hạng người vồn vã quá, người tốt giao du với nhau tình thường lạt như nước lã ; nước lã không có mùi vị đậm đà nhưng không bao giờ làm cho ta chán.
Đông Pha thường khen vợ về sự khôn ngoan này (3).
Năm 1065 Vương Phất từ trần lúc nàng mới 26 tuổi, an táng tại Tứ Xuyên. Tô Thức thương tiếc lắm. Nàng để lại cho chồng một người con trai mới biết đi, tên là Tô Mại.
Trước khi từ giã cõi đời, nàng Vương Phất trối trăng với chồng là nên tục huyền với Vương Nhuận Chi, em họ của nàng và rất giống nàng để chăm sóc ông và nuôi dạy Tô Mại. Ông khóc mà nhận lời.
Mười năm sau (tức năm Ất Mão 1075), ông Tô đang làm tri châu ở Mật Châu (Sơn Đông), cách Tứ Xuyên hàng ngàn dặm, đêm nằm mơ thấy người vợ đã khuất, lúc thức dậy làm bài từ điệu “Giang thành tử” trong đó có những câu :
…Thập niên sinh tử lưỡng mang mang
Bất tư lường
Tự nan vong
Thiên lý cô phần
Vô xứ thoại thê lương
Túng sử tương phùng ưng bất thức
Trần mãn diện
Mấn như sương…
Nguyễn thị Bích Hải dịch :
Mười năm sống thác đôi nơi,
Nghĩ mà chi, vẫn khôn nguôi nhớ nàng.
Cô đơn phần mộ dặm ngàn,
Nói làm sao xiết muôn vàn thê lương.
Gặp nhau còn nhận ra chăng?
Mặt bụi nhuốm, tóc pha sương ngỡ ngàng…
Tô Thức là người đầu tiên làm từ điệu vong.
Bảy năm sau (1082), khi ông Tô xuôi dòng Trường giang, cùng bạn thưởng trăng trên sông dưới chân núi Xích Bích, từ của ông còn phảng phất nỗi thương xót ngậm ngùi :
Cố quốc thần du
Đa tình ưng tiếu ngã
Tảo sinh hoa phát…
(Niệm Nô Kiều)
(Hồn thả về chơi cố quận
Bạn tình chung có lẽ cười ta
Chưa chi đầu đã bạc…)
Bạn tình chung nơi cố quận hẳn là vong hồn nàng Vương Phất. Năm ấy ông mới 46 tuổi.
Đấu Rượu Cho Chàng
Vợ mất ba năm, đoạn tang, năm 1068 Tô Thức theo lời vợ, tục huyền với cô em họ của Vương Phất là Vương Nhuận Chi, hai mươi tuổi. Không giỏi dắn đảm đang bằng chị nhưng nàng cũng rất quí yêu chồng, chăm sóc con của mình và con riêng của chồng (Tô Mại) rất chu đáo và suốt đời chia sẻ những khó khăn gian khổ với chồng.
Nàng là người hiền thục lại rất chiều chồng. Biết chồng thích rượu, lúc nào nàng cũng sắm sẵn một đấu rượu để khi chồng cần thì có ngay. Chuyện này Tô Thức kể lại trong bài “Hậu Xích Bích phú” như sau :
“Khách nói : Sẩm tối, tôi cất lưới được một con cá, miệng to vảy nhỏ, hình dáng tựa con lư ở Tùng Giang (4). Tìm đâu ra được rượu đây?
Tôi về bàn với nhà tôi. Nhà tôi đáp :“Thiếp có một đấu rượu, cất đã lâu, phòng lúc nhà bất thần dùng đến”. (Nguyên văn : Ngã hữu đấu tửu, tàng chi cữu hĩ. Dĩ đãi tử, bất thời chi nhu). Thế là xách rượu và cá, lại đi chơi dưới chân Xích Bích một lần nữa”.
Nhà phê bình văn học lỗi lạc của Trung Quốc là Kim Thánh Thán đời Thanh cũng có nhắc lại chuyện này trong lời phê bình cuốn “Mái Tây” (Tây sương ký) của Vương Thực Phủ. Ông viết :
“Mười năm chia tay bạn, chiều tối chợt bạn xuất hiện. Mở cửa, tay nắm chặt tay, chẳng kịp hỏi tới nhà mình bằng thuyền hay bằng ngựa. Cũng chẳng kịp mời ngồi ghế hay ngồi giường. Hàn huyên qua loa, vội chạy vào nhà trong, thấp giọng hỏi vợ rằng :
-“Mình liệu có đấu rượu của Tô Đông Pha không?
Vợ tươi cười rút cành trâm vàng đang cài trên đầu trao cho. Thế là đủ ba ngày cơm rượu…”
Bảy Cái Lò Lửa
Theo “Dục hải từ hàng” thì Tô Thức có đến bảy người thiếp. Phật Ấn, bạn thân của Tô Thức, là một vị cao tăng có tài hùng biện đời Tống, một hôm đùa bảo Tô Thức rằng :
- Bác có nhiều thiếp thế, tặng cho tôi cô thứ bảy được không?
Ông Tô cười đáp :
- Sao lại không?
Tưởng chỉ là lời nói đùa, không ngờ chiều tối ông Tô cho xe đưa người thiếp đến.
Phật Ấn đón người thiếp vào nằm trong buồng rồi buông màn. Trước buồng đã đặt sẵn bảy cái hỏa lò, cái nào cũng đầy than đỏ rực. Ông bước qua từng cái một, cứ bước qua bước lại như thế suốt đêm. Đến sáng, ông cho xe đưa người thiếp về trả. Nghe kể lại đầu đuôi câu chuyện, Tô Thức chợt “ngộ” ra :
- Bảy cái hỏa lò rực lửa kia là chỉ bảy người thiếp của ta cũng như bảy cái hang lửa. Ông làm thế là tỏ ra mình đã vượt ra khỏi vòng sắc dục, còn ta thì sa ngã đắm đuối vào đấy. Chắc là ông muốn thức tỉnh ta đây.
Người Vợ Tri Kỷ
Trong số các tì thiếp của mình, Tô Đông Pha yêu nhất nàng Triêu Vân. Nàng trẻ trung, xinh đẹp lại thông minh, giúp ông được nhiều việc. Lúc về với ông, nàng chưa biết chữ nhưng nhờ ông chuyên tâm dạy dỗ và nàng chăm chỉ học hành nên chẳng bao lâu nàng đã đọc thông viết thạo.
Cuộc gặp gỡ Triêu Vân là một sự may mắn lạ lùng. Khi bị biếm đến Hàng Châu, Tô Đông Pha thường hay ra chơi Tây hồ, một thắng cảnh nổi tiếng tại tỉnh này. Ven bờ Tây hồ, trong các vườn hoa ngào ngạt hương thơm có những trà thất nên thơ bên cạnh các hàng liễu rũ, đêm đêm vang lên tiếng đàn tiếng ca thánh thót, du dương của các nàng ca nhi xinh như mộng. Triêu Vân là một trong số các nàng ấy, bấy giờ mới hơn mười tuổi nhưng tài sắc của nàng nổi bật hẳn lên giữa đám ca nhi làm say lòng biết bao vương tôn công tử. Nàng có giọng ca rất lạ, khi trầm lắng như nghẹn ngào nức nở, khi mượt mà, bay bổng như ngọn gió mát lành trên mặt nước Tây hồ. Những bài từ của Tô Đông Pha chỉ có nàng ca là hay hơn cả khiến cho bao trái tim như ngừng đập và ông Tô rung động bồi hồi. Tình yêu bắt nguồn từ đó.
Nàng Vương Nhuận Chi biết chuyện nhưng không hề ghen tức. Một lần nàng đến tìm gặp Triêu Vân rồi về nói với chồng :
- Cô gái xinh đẹp này rồi sẽ rất cần cho nhà sau này đấy. Thiếp sẽ mua Triêu Vân.
Và nàng Vương đã giữ lời. Ít lâu sau, Triêu Vân về với ông và nhanh chóng trở thành một đôi uyên ương tương đắc mặc dù tuổi tác khá chênh lệch : nàng kém ông những 27 tuổi ! Vương Nhuận Chi coi nàng như cô em gái bé bỏng, và khi đến Hoàng Châu, nàng đã chính thức cưới Triêu Vân để làm thiếp cho chồng. Ông Tô rất mến phục nàng về việc ấy.
Đông Pha yêu Triêu Vân không chỉ vì nàng xinh đẹp, thông minh mà còn vì nàng là tri kỷ của ông, rất hiểu lòng ông, tâm đầu ý hợp. Vương Thế Trinh, người đời Minh, kể trong “Điệu hước biên” rằng : “Một hôm Đông Pha đi chầu vua về, ăn no, lấy tay xoa bụng đi lại trong dinh, hỏi những người theo hầu :
- Các ngươi hãy đoán xem cái gì trong này?
Kẻ thì bảo toàn là văn chương cả, người thì thưa : nơi chứa ruột gan, kẻ thì cho là toàn cao lương mỹ vị. Đông Pha vẫn không hài lòng. Đến lượt mình, Triêu Vân cười đáp :
- Kẻ sĩ của triều đình nhưng ôm trong bụng toàn những thứ không hợp thời cả (nguyên văn : Triều sĩ nhất đỗ bì bất hợp thời nghi). Đông Pha thích chí cười ha hả”.
Ấy là nàng rất hiểu lòng ông. Bấy giờ phe tân đảng của Vương An Thạch, Chương Đôn, Lữ Huệ Khanh, Lý Định đang muốn dùng “biến pháp” để cải cách nền chính trị lạc hậu của nhà Tống, còn Đông Pha thì theo cựu đảng của Tư mã Quang chống lại biến pháp của Vương An Thạch nên nhiều phen bị phe tân đảng tâu vua giáng chức và đày ông tới những nơi cùng tịch, khổ sở thiếu thốn trăm bề.
Khi ông bị Chương Đôn lưu đày xuống Huệ Châu (Quảng Đông) chỉ có mình Triêu Vân theo hầu, các tì thiếp khác chịu cực không nổi nên bỏ đi cả rồi, nàng Vương Nhuận Chi đã mất. Có lần trò chuyện, Đông Pha nói với Triêu Vân :
- Mọi người ai cũng bảo ta có phúc hơn Bạch Cư Dị.
- Nhà nói thế là có ý gì?
- Khi Bạch Cư Dị bị giáng chức và bị biếm ra làm Tư mã Giang Châu, người thiếp yêu của ông đã bỏ đi lấy chồng, còn nàng thì luôn luôn theo sát bên ta đến tận chân trời góc bể vào những lúc hoạn nạn khó khăn nhất. Thế chẳng phải là ta có phúc hơn Bạch Cư Dị sao?
Triêu Vân khe khẽ cúi đầu, nước mắt rưng rưng.
Triêu Vân yêu quí chồng hơn hẳn hai bà trước, vui lòng chia sẻ với chồng những nỗi khổ cực gian nan nên ông rất quí nàng, thường làm thơ ca tụng. Ông bảo Triêu Vân là nàng tiên trên trời bị đọa xuống trần để trả nợ thay ông. Năm 1083 Triêu Vân sinh một đứa con trai nhưng không nuôi được. Đông Pha cho rằng vì mình thông minh và tài hoa quá nên thường hay gặp nạn, con cái thì hữu sinh vô dưỡng, bèn làm thơ tự mỉa mình :
Đãn nguyện tử tôn ngu thả độn,
Vô tai vô hại đáo công khanh.
(Chỉ mong con cháu ngu và xuẩn,
Bình an vô sự mà tới chức công khanh)
Một buổi chiều có gió heo may và sương thu lạnh, Đông Pha ngồi chơi với Triêu Vân. Ông bảo nàng cầm cốc rượu làm phách đánh nhịp, hát bài từ của ông theo điệu “Điệp luyến hoa”.
Triêu Vân vừa ca vừa khóc. Ông hỏi tại sao. Nàng chỉ vào hai câu :
Chi thượng liễu miên xuy hựu thiểu,
Thiên nhai hà xứ vô phương thảo.
(Tơ liễu trên cành phơ phất gió,
Nơi chân trời, chẳng nơi nào là không có cỏ thơm)
Ông cười lớn :
- Ta ngậm ngùi với mùa thu mà nàng thì khóc với mùa xuân ! (5).
Ở Huệ Châu chưa được bao lâu thì tể tướng Chương Đôn lại có lệnh đày ông Tô ra đảo Hải Nam, một hòn đảo bấy giờ chỉ có thổ dân man rợ và muốn ông chết ở đấy. Ông Tô muốn để gia đình ở lại Huệ Châu, chỉ một mình ra đảo nhưng Triêu Vân không chịu :
- Không ai chăm sóc chồng bằng vợ. Lúc chị Vương Nhuận Chi sắp mất, thiếp có hứa với chị là suốt đời cùng sống chết với nhà. Hãy để cho thiếp giữ trọn lời hứa, cho thiếp đi theo, thiếp sẵn sàng chịu mọi nỗi gian truân của kẻ đi đày.
Ông Tô rất xúc động, khôn ngăn đôi dòng lệ.
Nhưng chưa kịp ra đảo thì nàng đã ốm nặng rồi từ trần (1096). Một cơn sốt rét ác tính đã cướp đi mạng sống của nàng lúc mới 34 tuổi. Ông Tô gục xuống bên nàng để mặc cho dòng lệ tuôn trào như suối. Ông không chỉ khóc cho một người vợ mà còn khóc cho một người tri âm, tri kỷ không dễ gì gặp được trên đời.
Ông an táng nàng trước một rừng thông, cạnh một ngôi chùa và viết bài minh trên mộ chí :
“Thị thiếp của Đông Pha tiên sinh là Triêu Vân, tự Tử Hà, họ Vương thị, người Tiền Đường. Thông minh và thích việc nghĩa, thờ tiên sinh 23 năm, một mực trung và kỉnh. Năm Thiệu Thánh thứ ba (1096), tháng bảy, ngày Nhâm Thìn, mất ở Huệ Châu, 34 tuổi. Tháng tám, ngày Canh Thân, táng trên Phong Hồ, phía đông nam chùa Thê Hiền. Sinh con tên Độn, chưa đầy năm đã yểu. Nàng thường theo tì khưu ni Nghĩa Xung học Phật pháp, cũng biết sơ qua đại ý. Lúc sắp chết, tụng bốn câu kệ trong kinh Kim Cương rồi tuyệt” (6).
Ông làm thơ khóc nàng, lời lẽ rất xót xa cảm động, ví nàng như đám mạ đã xanh nhưng chưa kịp trổ đòng đòng, người có tư chất tốt mà chết sớm, chưa làm được việc gì có ích. Đó là mệnh trời ư? (Miêu nhi bất tú khởi kỳ thiên !).
Từ đó cảnh già của ông ở đảo Hải Nam thật cô đơn buồn tẻ. Tháng giêng năm 1100, vua Triết Tông (7) băng lúc mới 24 tuổi. Vị hoàng tử duy nhất, con trai ông, chết lúc ba tháng tuổi. Vì thế ngôi vua lại về tay Huy Tông, chú của Triết Tông. Lên ngôi xong, công việc đầu tiên của Huy Tông là cách chức tể tướng Chương Đôn và đày đi Lôi Châu rồi cho phục chức tất cả các đại thần bị Chương Đôn đày ải, truy phong cho những người đã bị Chương Đôn sát hại.
Thế là Tô Đông Pha được ân xá, rời đảo Hải Nam để lên đường về bắc.. Nhưng bấy giờ ông đã già yếu lắm rồi, nhất là sau nhiều năm bị đày ải. Chỉ một năm sau ông đã từ trần tại Thường Châu (1101) thọ 65 tuổi, kết thúc một cuộc đời tài hoa lận đận. *
1. Nguyên bản tiếng Hán của bài " TỪ " ( Điệp luyến Hoa ):
蘇東坡<蝶戀花>:
Tô Đông Pha ( Điệp luyến Hoa )
花退殘紅青杏小,燕子飛時,綠水人家繞。
枝上柳棉吹又少,天涯何處無芳草。
牆裡鞦韆牆外道,牆外行人,牆裡佳人笑。
笑漸不聞聲漸悄,多情卻被無情惱。
2. Đây là một bài TỪ, không phải bài THƠ. Bài từ nầy có tên là " ĐIỆP LUYẾN HOA " , nên phía sau tựa ĐIỆP LUYẾN HOA khỏi phải viết thêm chữ TỪ nữa.
3. Điệp luyến Hoa là " BƯỚM VỜN HOA " . Môt thể loại từ phát xuất từ đời Trung Đương và Thịnh hành ở Tàn đường. Đây là bài từ vừa tả cảnh vừa tả tình và đặc biệt là có những câu rất nổi tiếng và thịnh hành cho đến hiện nay, như những câu sau...
" Hoa thốn tàn hồng, thanh hạnh tiểu " : Hoa xuân đã tàn úa trong khi trái hạnh xanh còn nhỏ, cảnh giao mùa giữa cuối xuân đầu hạ, một kết thúc một bắt đầu. Hiên tượng tự nhiên thường thấy trong thi từ ca cổ, nhưng cũng gây cho người đọc cái ý nghĩ thương cảm trong cảnh xuân tàn.
" Yến tử phi thời, lục thủy nhân gia nhiễu " : Khi chim én bay lượn trên những nóc gia có dòng nước xanh vây quanh. Hình ảnh chim én là biểu tượng còn xuân, chim én chỉ làm tổ ở những nơi có người ở, nên Nhân Gia và Dòng nước xanh ở đây là biểu tượng của đầm ấm hạnh phúc, của lạc quan trong cảnh xuân tàn với " Chi thượng liễu miên xuy hựu thiểu ": Càng ngày trên cành những hoa liễu trắng xóa bay như tuyết rơi lại ngày càng it đi. Và đây là câu nổi tiềng nhất của bài từ :
" Thiên nhai hà xứ vô phương thảo " .
( Chân trời góc bể ) Thiên hạ nơi nào mà chẳng có cỏ non. Câu nầy được nhân gian sử dụng rộng rãi để khuyên những thanh niên nam nữ thất tình : Nơi nào mà chả có cỏ non, bị người tình phụ bạc, biết đâu ta sẽ lại gặp được người tình khác tuyệt vời hơn !... và một câu nữa cũng rất nổi tiếng là câu kết của bài từ nầy :
" Đa tình khước bị vô tình não " !
Người đa tình thường bị những người vô tình làm cho phiền não !. Giai nhân trong tường đánh đu, vui đùa một cách vô tư thoải mái, đâu biết rằng tiếng cười vui của mình đẫ vô tình làm cho kẻ đa tình đứng ngoài tường tự chuốc lấy phiền não riêng mình !
Sẽ viết riêng một bài nói về " Cuộc đời Hôn nhân và Tình ái của Tô Đông Pha " sau.
4. Diễn nôm :
BƯỚM VỜN HOA
Hoa tàn rả cánh, hạnh non cành
Khi én lượn quanh
Quê người nước chảy lòng thêm chạnh
Dương liễu đầu cành gió cuốn nhanh
Cỏ non xanh rợn chân trời xanh
Kín cổng cao tường người đẹp
Tiếng cười dòn tan dần dần khép
Ngoài tường hành nhân ngỏ hẹp
Vô tình người đẹp trong tường
Đa tình thường bị vô tình vấn vương !
ĐCĐ diễn nôm.