北使宿丘溫驛 Bắc Sứ Túc Khâu Ôn Dịch
挽盡天河洗甲兵, Vãn tận Thiên Hà tẩy giáp binh,
廟堂無意事邊征。 Miếu đường vô ý sự biên chinh.
江山有限分南北, Giang sơn hữu hạn phân nam bắc,
胡越同風各弟兄。 Hồ Việt đồng phong các đệ huynh.
月滿蠻村閒夜柝, Nguyệt mãn man thôn nhàn dạ thác,
雨餘野燒樂春耕。 Vũ dư dã thiếu lạc xuân canh.
君恩未效涓埃報, Quân ân vị hiệu quyên ai báo,
一介寧辭萬里行。 Nhất giới ninh từ vạn lý hành.
阮忠彥 Nguyễn Trung Ngạn
* Chú Thích :
- Vãn tận Thiên Hà tẩy giáp binh 挽盡天河洗甲兵 : Câu thơ nầy có xuất xứ từ hai câu thơ trong bài Tẩy Binh Mã (Rửa khí giới) của Đỗ Phủ như sau :
An đắc tráng sĩ vãn thiên hà; 安得壯士挽天河,
Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng. 淨洗甲兵長不用.
Có nghĩa:
Làm sao có được một tráng sĩ nào đó kéo nước sông Ngân xuống (dịch chữ Thiên hà); Rửa sạch khí giới và áo giáp, mãi mãi không dùng đến nữa.( Ý chỉ có người tài giỏi, dẹp yên chiến tranh để dân chúng được an hưởng thái bình, nhưng mà... thực tế thì đâu có được người như thế !)
Đọc câu nầy làm cho ta lại nhớ đến câu "Tẩy binh vô lộ vãn Thiên hà 洗兵無路挽天河" trong bài Thuật Hoài của danh tướng Đặng Dung cũng ở đời Trần. Nhưng Đặng Dung 鄧容 (1373 – 1414) sanh sau hơn Nguyễn Trung Ngạn 阮忠彥 (1289-1370). Có thể khi viết câu thơ trên Đặng Dung đã đọc qua bài thơ của Nguyễn Trung Ngạn rồi, nên mượn ý để viết lại mà thôi.
- Miếu Đường 廟堂 : Chỉ Triều đình.
- Biên Chinh 邊征 : Chiến chinh vùng biên giới biên ải xa xôi.
- Man Thôn 蠻村 : MAN là Dã Man 野蠻 chưa khai hóa; THÔN xóm. MAN THÔN chỉ bản làng của người dân tộc.
- Dạ Thác 夜柝 : Ban đêm trăng sáng đi hái những nhánh cây khô để làm củi.
- Dã Thiêu 野燒 : Chữ THIÊU là Đốt được đọc thành THIẾU cho đúng luật Bằng Trắc ở trong câu. Nên DÃ THIÊU : là Đốt cỏ khô và rơm rạ ngoài đồng để làm phân, chuẩn bị cho vụ mùa canh tác của mùa xuân tới (XUÂN CANH).
- Quyên Ai 涓埃 : QUYÊN là dòng nước nhỏ; AI là hạt bụi nhỏ, nên QUYÊN AI là nhỏ nhoi, nhỏ nhặt, là Một chút xíu.
- Nhất Giới 一介 : chỉ Cá nhân nhỏ nhoi của mình (lời nói khiêm tốn).
* Nghĩa Bài Thơ :
Đi Sứ Phương Bắc Trú Tại Dịch Quán Khâu Ôn
(Làm sao có thể) kéo hết nước của sông Thiên hà xuống để rửa sạch khí giới và áo giáp (để không còn chiến tranh nữa). Triều đình cũng không có ý gây sự chiến tranh ở các vùng biên cương xa xôi. Núi sông có mốc giới phân định hẳn hoi hai vùng nam bắc, người Hồ kẻ Việt đều cùng chung phong tục tập quán nên đều cùng là anh em cả. Đêm trăng sáng nhàn rỗi nên dân của các bản làng đi bẻ nhánh gom cành làm củi, sau cơn mưa lại đốt cỏ khô rơm rạ để làm phân cho mùa xuân canh tác sắp tới. Ơn vua thì chưa báo đáp được mải mai nào cả, nên bản thân cũng không dám tỏ ý từ nan mà phải đem thân đi sứ ở ngoài muôn dặm như thế nầy.
* Diễn Nôm :
Bắc Sứ Túc Khâu Ôn Dịch
Kéo nước Thiên Hà rửa giáp binh,
Triều đình chẳng có ý chiến chinh.
Núi sông định rõ phân nam bắc,
Hồ Việt đành rành cũng đệ huynh.
Trăng sáng bản làng đi kiếm củi,
Lửa thiêu cỏ rạ đợi xuân canh.
Ơn vua chưa mải mai đền đáp,
Sao dám từ nan vạn lý hành !?
Lục bát :
Kéo sông Ngân, rửa giáp binh,
Triều đình chẳng ý chiến chinh biên thùy.
Núi sông nam bắc phân kỳ,
Anh em Hồ Việt tông chi cùng đồng.
Đêm trăng tìm củi rổi công,
Sau mưa đốt cỏ cho đồng xuân canh,
Ơn vua chưa đáp mong manh,
Dẫu đi muôn dặm không đành từ nan.
Đỗ Chiêu Đức