春晝 XUÂN TRÚ
縈迴竹徑遶荒齋, Oanh hồi trúc kính nhiễu hoang trai,
避俗柴門晝不開。 Tị tục sài môn trú bất khai.
啼鳥一聲春睡覺, Đề điểu nhất thanh xuân thụy giác,
落花無數點蒼苔。 Lạc hoa vô số điểm thương đài.
阮忠彥 Nguyễn Trung Ngạn
* Chú Thích :
- Trú 晝 : là Ban ngày, nên Xuân Trú 春晝 là Ban ngày trong mùa xuân.
- Oanh Hồi 縈迴 : là Lòng vòng, là loanh quanh.
- Nhiễu 遶(繞) : Đi vòng quanh, là bao bọc lấy.
- Hoang Trai 荒齋 : là Thư trai hoang vắng, là phòng đọc sách nơi vắng vẻ.
- Tị Tục 避俗 : TỊ là lánh, là tránh xa, TỤC là Thế tục, nên TỊ TỤC là tránh xa nơi thế tục.
- Thụy giác 睡覺 : là Thức giấc, là Ngủ thức dậy.
- Thương Đài 蒼苔 : là Rêu xanh.
* Nghĩa bài thơ :
NGÀY XUÂN
Con đường mòn hai bên trồng trúc uốn quanh bao bọc lấy căn thư trai hoang vắng, Vì muốn tránh xa thế tục nên cánh cửa bằng cây sơ sài ban ngày vẫn đóng kín. Một tiếng chim hót làm cho tỉnh giấc mộng xuân, nhìn ra thấy vô số hoa đang rụng trên thềm rêu xanh biếc.
Đọc bài nầy làm cho ta nhớ đến bài ngũ ngôn tứ tuyệt Xuân Hiểu của Mạnh Hạo Nhiên đời Đường là :
春眠不覺曉, Xuân miên bất giác hiểu,
處處聞啼鳥。 Xứ xứ văn đề điểu.
夜來風雨聲, Dạ lai phong vũ thanh,
花落知多少?! Hoa lạc tri đa thiểu ?!
Có nghĩa :
Đêm xuân ngủ quên sáng,
Nơi nơi tiếng chim kêu.
Suốt đêm nghe mưa gió,
Hoa rụng biết bao nhiêu ?!
Mạnh Hạo Nhiên thì ngủ say trong đêm xuân, còn Nguyễn Trung Ngạn thì ngủ say trong ngày xuân, đều là những kẻ sĩ muốn tìm chốn thanh nhàn để "lánh xa trần tục"!
* Diễn Nôm :
NGÀY XUÂN
Quanh co ngõ trúc bọc thư trai,
Thoát tục sài phi đóng ngủ ngày.
Một tiếng chim kêu choàng tỉnh giấc,
Vô vàn hoa rụng phủ rêu đài !
Lục bát :
Thư trai ngỏ trúc quanh co,
Cửa sài đóng kín chẳng lo nhân tình.
Chim kêu một tiếng giật mình,
Bên thềm hoa rụng rêu xanh phủ đầy !
Đỗ Chiêu Đức