1.Bản chữ Hán cổ của bài thơ :
夜飲 DẠ ẨM
李商隱 Lý Thương Ẩn
卜夜容衰鬢, Bốc dạ dung suy mấn
開筵屬異方。 Khai diên thuộc dị phương.
燭分歌扇淚, Chúc phân ca phiến lệ,
雨送酒船香。 Vũ tống tửu thuyền hương.
江海三年客, Giang hải tam niên khách,
乾坤百戰場。 Càn khôn bách chiến truờng.
誰能辭酩酊, Thùy năng từ minh đính,
淹臥劇清漳。 Yêm ngọa kịch Thanh Chương.
2. Nghĩa Bài Thơ :
* Câu 1 : Bốc dạ dung suy mấn.卜夜容衰鬓.
BỐC DẠ là Thành ngữ " Bốc Trú Bốc Dạ ",có nghĩa là " Tối ngày sáng đêm ", lấy tích từ " Tả Truyện- Trang Công năm 22 ". Kính Trọng thiết yến chiêu đãi Tề Hoàn Công, đến tối, Tề Hoàn Công nói " Kỳ dĩ hỏa kế chi " ( Đốt lửa lên mà nối tiếp nhé ! ). Kính Trọng đáp : " Thần bốc kỳ trú , bất bốc kỳ dạ, bất cảm " ( Thần chỉ chuẩn bị đãi ngày, chớ không chuẩn bị đãi đêm, nên không dám ! ) . Nên , sau nầy hễ vui chơi hoăc uống rượu Tối Ngày Sáng Đêm thì gọi là " Bốc Trú Bốc Dạ ". Ở đây, câu " Bốc dạ dung suy mấn " có nghĩa : " Uống rượu suốt đêm ( nên say mèm ), khi tỉnh dậy thấy dung nhan tiều tụy võ vàng, tóc tai dã dượi.".
* Câu 2 : " Khai diên thuộc dị phương " 開筵屬異方.
DỊ PHƯƠNG : Phương lạ, tác giả làm bài nầy khi đang là Tân Châu Mạc, nên Dị Phương ở đây là Tha Phương .
* Câu 3 : " Chúc phân ca phiến lệ " 燭分歌扇淚.
Ca Phiến : Những chiếc quạt của các ca nhi dùng khi múa hát. Còn LỆ, ở đây là Lệ nến. Nên câu nầy có nghĩa : Nến được phân ra thắp ở 4 góc đều cùng nhỏ lệ theo những chiếc quạt ca múa của ca nhi.
* Câu 4 : Vũ tống tửu thuyền hương 雨送酒船香 :
Chữ VŨ 雨 là Mưa, chớ không phải chữ LƯỠNG 兩 là Hai. Vì 2 chữ nầy có tự dạng giống nhau, nên dễ nhầm. Hơn nữa chữ VŨ là Mưa ( Danh từ ), mới đối được với chữ CHÚC là Ngọn nến ( Danh từ ) ở câu trên được.
TỬU THUYỀN : không phải là Thuyền chở rượu, mà là Ly hoặc Bình rượu có hình dạng của Chiếc Thuyền. Nên câu nầy có nghĩa : " Mưa càng đưa mùi hương đậm đà của các " thuyền rượu " thêm nồng nặc hơn.
* Câu 5 : Giang hải tam niên khách 江海三年客 :
Giang Hải : như Giang Hồ, chỉ phiêu bạc sông hồ, sông biển gì cũng thế. Ở đây chỉ tác giả ở Tân Châu Mạc 3 năm rồi.
* Câu 6 : Càn khôn bách chiến trường 乾坤百戰場 :
Càn Khôn : chỉ Trời đất, chỉ Thế giới, Cuộc đời. Câu nầy có nghĩa : Cuộc đời trong mấy năm nầy, đã cả trăm trận uống say cùng bạn hữu.
* Câu 7 : Thùy năng từ minh đính 誰能辭酩酊 :
Chữ Túy 醉 và chữ Từ 辭 cũng có tự dạng giống nhau, nhưng chữ TÚY 醉 thì Tối nghĩa hơn chữ TỪ 辭.
Minh Đính : là Say túy lúy. Câu nầy có nghĩa : Ai mà có thể từ chối không say túy lúy cho được chứ ?
* Câu 8 : Yêm ngọa kịch thanh chương 淹臥劇清漳 :
Yêm Ngọa : là Nằm lâu. Kịch : là Kịch liệt, là Rất. Thanh chương là dòng Chương Thủy. Lưu Trinh khi ngọa bệnh có thơ rằng : Dư anh trầm cố tật, Thoán thân Thanh Chương tân.淹臥劇清漳.câu nầy có nghĩa :
Nằm ngủ lâu, mình mẩy mồ hôi ra ướt đẫm như từ sông Thanh Chương mới ngâm nước lên vậy.
Nói chung,
Đây là bài thơ tả lại những cảm nhận của Lý Thương Ẩn sau khi tỉnh dậy từ một trận nhậu thâu đêm suốt sáng của kẻ xa nhà, thân thể rả rời, tóc tai dã dượi. Nến cháy sắp tàn, chỉ còn vương lại những lệ nến ngổn ngang với những chiếc quạt của các ca nhi nằm rải rác. Trời mưa, không khí ẩm thấp, nên còn thoang thoảng mùi rượu từ các ly tách và bình đựng rượu có hình dạng giống như chiếc thuyền. Cuộc sống buông thả của một viên quan văn phụ tá phiêu bạc giang hồ xa nhà đã ba năm nay, biết mấy trăm trận nhậu nhẹt sênh ca cùng bè bạn. Ai mà có thể từ chối không cùng say với nhau trên bàn rượu chớ, nên bây giờ tỉnh dậy mồ hôi ra ướt đẫm cả như mới vừa từ sông Thanh Chương ngâm nước lên vậy.( tức ý muốn nói là vừa bệnh xong vậy ).
3. Diễn nôm :
Uống rượu suốt đêm
Thâu đêm tóc tai dã dượi,
Tiệc tàn lại tiệc tha phương.
Lệ nến quạt ca rơi vãi,
Đêm mưa thuyền rượu thoảng hương.
Giang hồ ba năm đất khách,
Đất trời trăm trận " chiến trường ".
Hỏi ai không say túy lúy ?
Dật dờ ngỡ bệnh Thanh Chương.
Lục bát :
Suốt đêm tiều tụy võ vàng,
Tóc tai dã dượi tiệc tàn tha phương.
Nến chia lệ quạt vấn vương,
Mưa đưa hơi rượu thoảng hương ca trù.
Giang hồ thoáng đã ba thu,
Đất trời trăm trận, tít mù... biết ai...
Rượu ngon sao nỡ chẳng say ?
Uống tràn ngỡ bệnh nằm dài Thanh Chương !!!