1. Bản chữ Hán của bài thơ :
春夜 XUÂN DẠ
王安石 Vương An Thạch
金爐香燼漏聲殘, Kim lô hương tẫn lậu thanh tàn
翦翦輕風陣陣寒。 Tiễn tiễn khinh phong trận trận hàn.
春色惱人眠不得, Xuân sắc não nhân miên bất đắc
月移花影上欄桿。 Nguyệt di hoa ảnh thướng lan can.
2. Chú thích :
* Kim Lô : là Lò vàng, chỉ Lò làm bằng đồng ngày xưa, dùng để đốt trầm hương cho thơm, được đánh lên bóng láng.
* Lậu : là Dột, là Nhiễu, là Rỉ ra. Lậu Thanh : là Tiếng đồng hồ chứa nước cho nhỏ giọt dùng để đếm thời gian ngày xưa. Lậu Thanh Tàn : như ta thường nghe " Đêm khuya khắc lậu canh tàn ". Chỉ thời gian đã về khuya gần sáng, đồng hồ đã nhiễu gần hết nước và canh năm cũng đã sắp tàn.
* Tiễn tiễn : là Phe phẩy, là Hây hây.
* Não : ở đây là Phó Từ, không phải là Phiền não. Não Nhân : có nghĩa là Làm cho người ta...Khiến cho người ta...
3. Nghĩa bài thơ :
Lửa trong lò đà tắt, mùi hương cũng đã hết tỏa ra, tiếng đồng hồ nhỏ giọt cũng sắp tàn. Từng cơn gió sớm lành lạnh hây hây nhè nhẹ thổi. Hương sắc của đêm xuân khiến cho người ta không sao chợp mắt được, ngơ ngẩn mãi với các bóng hoa đã được ánh trăng chập chờn đưa lên tận lan can.
Qủa là " Đêm xuân một khắc giá đáng ngàn vàng " Cái êm dịu mát mẻ dễ chịu của đêm xuân hòa với mùi cỏ hoa đang đâm chồi nẩy lộc vươn lên đầy sức sống, làm cho thi nhân cũng ngây ngất với hương sắc của đêm xuân mà không sao ngủ được !
4. DIỄN NÔM :
ĐÊM XUÂN
Lủa tắt, canh tàn, hương thoảng qua,
Hây hây gió sớm lạnh ru mà.
Trêu ngươi xuân sắc, khôn yên giấc,
Trăng chiếu lan can ngập bóng hoa !
Lục bát :
Lò hương tắt, canh sắp tàn,
Hiu hiu gió sớm nhẹ nhàng hây hây.
Trêu ngươi xuân sắc ngất ngây,
Hoa theo bóng nguyệt phủ đầy lan can.
Đỗ Chiêu Đức