Loạn hậu thân bằng lạc diệp không,
Thiên biên thư tín đoạn thu hồ
Cố viên quy mộng tam canh vũ,
Lữ xá ngâm hoài tứ bích cùng.
Đỗ lão hà tằng vong Vị Bắc,
Quản Ninh do tự khách Liêu Đông.
Việt Trung cố cựu như tương vấn,
Vị đạo sinh nhai tự chuyển bồng.
a) THIÊN BIÊN: là Bên trời, chỉ xa xôi cách trở.
b) THU HỒNG: HỒNG 鴻 ở đây là HỒNG NHẠN 鴻雁 : Loài chim chuyên dùng để đưa thư. THU HỒNG là Cánh hồng nhạn đưa thư trong mùa Thu.
c) CỐ VIÊN QUY MỘNG: Mơ về vườn cũ, tức là Mơ về quê cũ.
d) LỮ XÁ NGÂM HOÀI: là Lòng trầm ngâm ở nơi quán trọ.
e) TỨ BÍCH CÙNG: TỨ BÍCH là Bốn bức vách tường, CÙNG là Loài Côn Trùng như Dế, Bù Cào, Châu Chấu... TỨ BÍCH CÙNG: là Bốn bề đều có tiếng côn trùng kêu ra rả.
(hay Lão Đỗ) Thi thánh Đỗ Phủ đời Thịnh Đường, đồng thời với Thi Tiên Lý Bạch, được mệnh danh Lão Đỗ để phân biệt với nhà thơ trẻ đời Tàn Đường Đỗ Mục (gọi là Tiểu Đỗ).
Bờ bắc sông Vị. Sông này phát nguyên từ núi Điểu Thử, huyện Vị Nguyên, tỉnh Cam Túc, chảy qua tỉnh Thiểm Tây rồi đổ vào sông Hoàng Hà. Tác giả ngụ ý tình bạn giữa Đỗ Phủ và Lý Bạch, dựa theo hai câu thơ sau đây của Đỗ trong bài Xuân Nhật Hoài Lý Bạch: "Vị Bắc xuân thiên thụ, Giang Nam nhật mộ vân" (Cây cảnh trời xuân bờ Vị Bắc, Ánh mây chiều muộn đất Giang Nam) ý nói có thần giao cách cảm, Đỗ nhìn bờ Vị Bắc nhớ Lý, hẳn Lý cũng nhìn mây đất Giang Nam mà nhớ Đỗ.
Tác giả đề cập khí phách của Quản Ninh, dân đất Ngụy thời Tam Quốc. Thiếu thời, đang cùng ngồi học chung chiếu với bạn là Hoa Hâm, bỗng một hôm Hoa Hâm bỏ chạy ra đường nhìn xem kẻ giàu sang cưỡi ngựa đi qua nên Quản Ninh cắt đôi chiếc chiếu, không chịu ngồi chung nữa. Cuối đời Hán, Quản Ninh tỵ loạn 37 năm ở Liêu Đông, từ chối mọi quan chức do hai vua Văn Đế và Minh Đế ban cho ông.
Kinh đô nước Việt ngày xưa thuộc tỉnh Triết Giang (Trung Quốc), sau bị nhà Hán thôn tính. Tác giả ngụ ý nhắc đến quê hương Việt Nam lúc bấy giờ.
j) VỊ ĐẠO : là Hãy nói rằng, Hãy đáp rằng.
k) TỰ CHUYỂN BỒNG: Xoay chuyển giống như là cỏ bồng, dật dờ vô định.
Sau loạn lạc bà con bạn bè thưa thớt như những chiếc lá mùa Thu rơi rụng.
Chân trời góc bể dứt hẵn bóng chim hồng nhạn mùa Thu đưa thư. (Chữ ĐOẠN ở đây làm ta nhớ đến câu thơ của NGUYỄN DU trong Kiều: Cạn dòng lá thắm DỨT đường chim xanh!)
Canh ba nửa đêm mưa rả rích làm mộng hồn cứ luôn mơ về quê cũ.
Trong quán trọ lòng cứ trầm ngâm mãi giữa bốn bức vách luôn vang dậy tiếng côn trùng.
Lão Đỗ đâu có khi nào quên được bờ bắc của sông Vị đâu.
Quản Ninh vẫn còn là thân đất khách của xứ Liêu Đông.
Giá có bạn bè thân quen cũ ở đất Việt Trung xưa hỏi thăm.
Xin hãy đáp rằng cuộc sống còn xoay chuyển giống như là cỏ bồng, dật dờ vô định.
Sau loạn bạn bè tựa lá rơi,
Ngút trông tin nhạn biệt bên trời.
Nửa đêm quê cũ lòng luôn nhớ,
Bốn phía côn trùng dạ chẳng nguôi.
Vị Bắc Đỗ già hằng khoắc khoải,
Liêu Đông chàng Quản luống bồi hồi.
Việt Trung thân hữu như thăm hỏi,
Hãy đáp cuộc đời lắm nổi trôi !
Sau loạn thân hữu dần thưa,
Bên trời nhạn bặc biếng đưa thư hồng.
Đêm mưa quê cũ vời trông,
Bốn bề lữ quán côn trùng ngâm nga.
Quản Ninh như khách la cà Liêu Đông.
Bạn bè thăm hỏi Việt Trung,
Đáp rằng thân hãy phiêu bồng nổi trôi !