- Đào Tiềm 陶潛 (365-427), tự là Nguyên Lượng (元亮), hiệu là Uyên Minh (淵明), lại có biệt hiệu là Ngũ liễu tiên sinh (五柳先生), là một trong những nhà thơ lớn của Trung Hoa thời nhà Tấn và Lưu Tống.
- Bành Trạch 彭澤 : Nơi mà Đào Tiềm làm Huyện lệnh, nên ông còn được gọi là Đào Bành Trạch.
- Nhàn Khoáng 閒曠 : là Rảnh rỗi không bận bịu.
- Lục Lục 碌碌 : là Lăng xăng bận rộn.
- Chiết Yêu 折腰 : là Gãy lưng. Chỉ cúi rạp mình xuống.
- Từ Lộc 辭祿 : là Từ chối bổng lộc, có nghĩa là từ quan.
- Ngũ Chu Liễu 五株柳 : là Năm cây liễu. Trong tự truyện, Đào Tiềm kể về một ông gìa nhà có trồng năm cây liễu, nên mọi người đều gọi ông ta là Ngũ Liễu Tiên Sinh. Đó cũng là hình ảnh mà Đào Tiềm tự ví mình.
- Nhất Ly Cúc 一離菊 : là Một hàng rào cúc (Giậu cúc). Khi về vườn, Đào Tiềm trồng rất nhiều hoa cúc ở phía đông hàng rào nhà mình. Nên thơ ông có câu : Thái cúc đông ly hạ 採菊東籬下. Có nghĩa : Hái hoa cúc ở dưới rào mé đông.
- Liêu Liêu 寥寥 : Vốn nghĩa là Thưa thớt, lẻ tẻ. Ở đây dùng chỉ thời gian nên có nghĩa là : Vằng vặc, xa xôi diệu vợi.
* NGHĨA BÀI THƠ :
Đi Ngang Qua Bành Trạch Thăm Chỗ Ở Cũ Của ĐÀO TIỀM
Ta vốn tính phóng khoáng ưa nhàn tản, nên ban đầu cũng không chịu được với thói lăng xăng bận rộn để bợ đỡ người khác. Cũng như Đào Uyên Minh đã không vì năm đấu gạo mà chịu khom lưng để cho người sai khiến, nên mới phải treo ấn mà từ bỏ bổng lộc kia. Thà về nhà vun trồng năm cây liễu thưa thớt và sống đạm bạc với giậu cúc phía tường đông. Xa xôi vằng vặc cả ngàn năm sau rồi, nhưng thanh danh của Đào Tiềm vẫn còn làm cho ta phải cảm phục.
Nhân đi sứ nước người, ngang qua đất Bành Trạch, sẵn ghé thăm nơi mà cao sĩ Đào Uyên Minh đã từng vì năm đấu gạo mà phải làm Tri Huyện ở nơi đây. Ý của Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi là cũng muốn mượn cái tính cách thanh cao của Đào Tiềm để tỏ rõ cái ý chí của mình. Khâm phục cái thanh danh của Đào Tiềm tức là đã nâng cao cái phẩm chất của mình rồi đó vậy !