Đỗ Chiêu Đức xin thành kính phân ưu với câu đối sau đây :
兆 應 瑞 麟,半 世 啓 蒙 稱 師 表,
Triệu ứng thoại lân, bán thế khải mông xưng sư biểu ,
銘 心 刻 骨,一 生 誠 樸 實 先 賢
Minh tâm khắc cốt, nhất sinh thành phác thực tiên hiền.
Dịch nghĩa :
Điềm ứng cho kỳ lân lành xuất hiện, nửa đời người làm nghề gõ đầu trẻ, xứng đáng là bậc Thầy gương mẫu.
Ghi vào lòng tạc vào dạ, một đời thành thật chất phác, quả thực sự là bậc tiền bối hiền lương.
Chú thích :
Thầy Lâm Triệu Minh, ( 林兆銘 老師 ) nên lấy chữ TRIỆU và chữ MINH đứng đầu 2 câu đối.
TRIỆU là cái điềm báo trước, ứng cho kỳ lân xuất hiện. Kỳ Lân là con vật thứ nhì trong Tứ Linh : Long Lân Quy Phượng. Theo truyền thuyết thì mỗi lần Kỳ Lân xuất hiện là thiên hạ thái bình, tương truyền khi Khổng Tử sắp chào đời thì có Kỳ Lân xuất hiện, là điềm có Thánh nhân ra đời. Khổng Tử làm nghề dạy học suốt cả cuộc đời, học trò thành tựu nổi tiếng khắp nơi, nên được người đời xưng tụng là VẠN THẾ SƯ BIỂU 萬世師表. Là bậc thầy gương mẫu của người đời muôn đời.
MINH là Khắc, là Tạc, là Chạm trổ. Minh tâm khắc cốt tương đương với tiếng Việt là Ghi lòng Tạc dạ. Sẳn thầy giảng luôn chữ MINH.Ta có 7 chữ MINH thường gặp là : MINH là Sáng ( 明) Quang minh chẳng hạn., MINH là Tối ( 冥), từ thường gặp là U Minh là tối tăm. MINH là Kêu, là hót ( 鳴) Ví dụ : Điểu Minh là chim hót., MINH là Trà ( 茗) Phẩm Minh là Thưởng thức trà. , MINH là Nhắm mắt ( 瞑), 死不瞑目 là chết không nhắm mắt. MINH là Bù Cào, Châu Chấu ( 螟), là Con Bà Mụ, một loại côn trùng sống trong nước , thường ví với con nuôi, gọi là dưỡng tử MINH LINH ( 螟蛉養子). Còn chữ MINH (銘) của Ông Thầy mình có bộ Kim một bên, là Khắc, Ghi, Chạm, Trổ vào Kim loại ngày xưa.
Năm 1957, thầy 9 tuổi tây, 10 tuổi ta, từ Cái Chanh ra Cái Răng học chữ Tàu, thì đã biết Thầy Lâm Minh, nhưng đến năm học lớp Ba 三年級, thì mới hân hạnh được học với Thầy, Thầy Minh dạy các môn Thường Thức 常識, Toán 算術, Vẽ 美術 và Dạy Hát 音樂
Thầy Lâm Triệu Minh 林兆銘 老師 dáng người thanh tú, mặt mày hiền từ sáng sủa, đặc biệt là có chiếc mũi hơi to và luôn ửng đỏ, Thầy cao khoảng 1 mét 65 trở lên, nhưng lại rất oan uổng, vì bị học trò gọi là Ông Lỉn Lùn. Tại sao ?. Xin thưa, vì Thầy dạy chung cùng lúc với Ông Xí Nám 林世南 老師, cũng họ Lâm ,lại cao hơn Thầy, nên được gọi là Ông Lỉn Cao, vì vậy, mà tuy người khá cao ráo, Thầy vẫn bị học trò gọi là ông Lỉn Lùn.
Thầy có thói quen, khi đi đường luôn luôn nhìn thẳng về phía trước, mặt hơi ngước lên, không nhìn ngang ngó dọc, chỉ thẳng một đường mà đi, có biểu hiện của người quân tử nghiêm trang đứng đắn. Những môn Thầy dạy để lại ấn tượng nhất trong lòng học sinh lúc bấy giờ ( khoảng 1959--1960 ) là môn Âm nhạc, vừa giáo dục lòng yêu nước như bài Đồng Tử Quân Trung Quốc 中國童子軍, Bài hát Quốc Kỳ 國旗歌. Có bài mang tính nghệ thuật như Tiếng Thu 秋聲, Liễu mùa Thu 秋柳, với các lời ca thật diễm lệ như : 堤邊柳到秋天葉亂飄,葉落盡只剩著細枝條... Bài Đêm Thu với các lời ca như : 明月照庭院,冷露潤草花... đầy tính thi ca trong lời hát. Có nhiều bài, tới sau 1975 mới biết là bài ca mang tính quốc tế , như bài 喀秋沙( Đa Kiu Sa ) là nhạc Liên Sô, Khi qua đến Mỹ mới biết bài Thu Liễu là nhạc Mỹ.... Lúc đó, học trò còn nhỏ đều không biết, và không thưởng thức được tính nghệ thuật văn học rất cao trong bài hát, nên đều than phiền là Thầy Lâm Minh dạy nhạc " rên " quá !
Bây giờ ngồi đây, gõ lại những dòng hồi ức nầy, hát lại những bản Thầy đã dạy năm xưa, mà nghe lòng bồi hồi xúc động. Tuổi trẻ không cảm nhận nổi những nghệ thuật, những nét độc đáo của những bài hát năm xưa, bây giờ hiểu được cái giá trị và cái hay ho của nó thì... Thầy đã không còn nữa, Thầy ơi ! ! !... Thầy đã đi rồi !!!...
Chiến tranh làm xa cách, biến cố 1975 làm chia rẽ mỗi người một nơi, tản mạn khắp tận cùng của năm châu bốn bể, cuộc đời vốn dĩ lắm đổi thay lại càng thêm thay đổi, thoáng chốc mà đầu xanh đã hóa bạc cả rồi, và sanh lão bệnh tử đã cướp mất đi vĩnh viễn Thầy cô và đồng môn bạn học của thuở nào rồi !....Năm chục năm không một lời thăm hỏi, vấn an, đứa học trò bạc bẽo nầy chỉ còn biết âm thầm hối hận và lặng lẽ tiếc thương cho người Thầy của thuở xa xôi trong quá vãng mà thôi !
Ghi lại những dòng hoài niệm ngắn ngủi nầy như một nén hương lòng thành kính gởi đến bên trời Bỉ xa xôi để tưởng nhớ đến một người Thầy đã một đời tận tụy với nghề dạy học bạc bẽo nầy đây !....
Chân thành kính điếu,
Đỗ Chiêu Đức.