Vạn Thạch Đình
萬石亭 VẠN THẠCH ĐÌNH
木樨花下酒初醒, Mộc tê hoa hạ tửu sơ tinh,
乘興登臨萬石亭。 Thừa hứng đăng lâm Vạn Thạch Đình.
豪傑舊遊無覓處, Hào kiệt cựu du vô mịch xứ,
曲欄杆外數峰青。 Khúc lan can ngoại sổ phong thanh.
阮忠彥 Nguyễn Trung Ngạn
* Chú Thích :
- Vạn Thạch Đình 萬石亭 : Tên địa danh, nay thuộc huyện Nhạc Dương, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc.
- Mộc Tê Hoa 木樨花 : là Hoa Quế.
- Hứng 興 : là Hứng thú; nếu đọc là HƯNG thì là Hưng thịnh (động từ). Nên THỪA HỨNG 乘興 : là Nhân lúc còn đang hứng thú.
- Vô Mịch Xứ 無覓處 : Không có chỗ để tìm; có nghĩa Tìm không thấy chỗ cũ.
- Khúc 曲 : là Gãy, là Cong; KHÚC LAN CAN 曲欄杆 là Dãy lan can uốn khúc.
- Sổ Phong Thanh 數峰青 : SỔ là Mấy, PHONG là Ngọn núi, THANH là Xanh; nên SỔ PHONG THANH là Mấy ngọn núi xanh xanh, chớ không phải "Mấy tiếng gió".
* Nghĩa bài thơ :
ĐÌNH VẠN THẠCH
Mới vừa tỉnh rượu ở dưới chòm hoa quế, nhân lúc còn đang hứng thú bèn leo lên Vạn Thạch Đình để ngắm cảnh. Nhưng chẳng sao tìm được chỗ mà các hào kiệt ngày xưa từng dạo chơi, chỉ thấy bên ngoài dãy lan can khúc khuỷu là mấy ngọn núi xanh xanh mà thôi !
Cảnh xưa vẫn còn đó và vẫn đẹp như xưa, nhưng anh hùng hào kiệt ngày xưa thì giờ đang ở nơi nao ? Thật là cảm khái ! Đọc bài thơ nầy lại làm cho ta nhớ tới hai câu thơ của nhà thơ Tiền Khởi 錢起 đời Đường trong bài Tương Linh Cổ Sắc〈湘靈鼓瑟〉như sau :
曲終人不見, Khúc chung nhân bất kiến,
江上數峰青. Giang thượng sổ phong thanh !
Có nghĩa :
Khúc tàn người đã vắng tanh,
Trên sông mấy ngọn núi xanh một màu.
* Diễn Nôm :
VẠN THẠCH ĐÌNH
Song thất lục bát :
Dưới hoa quế cơn say vừa tỉnh,
Vạn Thạch Đình hướng đỉnh leo lên.
Dấu xưa hào kiệt buồn tênh,
Lan can uốn khúc núi xanh mấy hòn.
Lục bát :
Dưới hoa vừa tỉnh cơn say,
Thạch Đình thừa hứng leo ngay lên đồi.
Nào nơi hào kiệt dạo chơi...
Lan can khúc khuỷu bồi hồi núi xanh !
Đỗ Chiêu Đức