Tôi xuất thân là con nhà nghèo, ở xã Thường Thạnh, Thị Trấn Cái Răng, huyện Châu Thành, Tỉnh Phong Dinh. Là người Việt gốc Hoa, nhà đông anh em, nên chữ Hoa chỉ học có 5 năm, rồi ra học chữ Việt. Lúc đó Ba tôi đã than rằng : " Chữ Hoa mà chỉ học có 5 năm thì đâu có ra gì ! Bây giờ đi học chữ Việt, chắc nó sẽ quên hết chữ Hoa quá, mất gốc là cái chắc ! " Nghe ba tôi than, tôi cũng rất buồn, nên để dành tiền mua sách dạy chữ Nho về học chữ Hoa bằng từ Hán Việt, điều này cũng phù hợp với bà con lối xóm, họ nói : " Cái thằng nầy nó học chữ Tàu, nên nó biết chữ Nho !". Trong ấp Yên Thượng của tôi ở lại có ngôi chùa Linh Thạnh Tự, tôi đến đó để học chữ Nho với ông Thầy Thừng, là Thầy trụ trì của ngôi chùa, nên chữ Nho cũng biết kha khá. Có một điều trở ngại là chữ Nho là chữ Hán Cổ, không phù hợp với tiếng Hán hiện đại, nên vẫn không xem báo và đọc tiểu thuyết Quỳnh Dao hay truyện võ hiệp của Kim Dung được, vã lại tôi chỉ biết phát âm bằng âm Việt Hán, chứ đâu biết phát âm bằng tiếng Quan Thoại.....
Lớp tôi chuyển sang học tiếng Việt 11 đứa, luyện thi 3 tháng, đi thi Bằng Tiểu Học, đậu 10 đứa, Bà con trong chợ đều khen, " Mấy đứa học trò trường Hoa chuyển sang học tiếng Việt giỏi thiệt !". Mười đứa thi đậu lại tiếp tục học lớp luyện thi vào Đệ Thất của Trường Phan Thanh Giản, một tháng sau đi thi, chỉ có mình ên tôi trúng tuyển vào Đệ Thất của năm học 1962-1963. Đến giữa năm Đệ lục PTG, thì có lớp luyện thi Trung Học Đệ Nhất Cấp cho học sinh Lục, Ngũ, Tứ của thầy Thiều Quang Minh, tôi đánh liều cả gan ghi danh vào lớp luyện thi, 6 tháng sau, hè năm 1964, Trời xui đất khiến tôi đi thi và đậu ngay bằng Trung học Đệ Nhất Cấp. Cuối năm Đệ Lục mà đã đậu Bằng Trung Học ĐNC, vấn đề là ở đây, đậu TH rồi không lẽ lại vào học lớp Đệ Ngũ, Còn xin học Đệ Tam thì Trường PTG đâu có cho, ra học ngoài trường tư thì đâu có tiền đóng học phí, cuối cùng....
Tôi lên Chợ Lớn làm lao công trong trường Trung Tiểu học PHƯỚC ĐỨC của ban Phước Kiến, ban đêm đi học lớp Tam Nhị luyện thi Tú Tài 1 ở trường Chu Văn An.... Chính trong thời gian nầy, tôi học cách phát âm bằng tiếng Quan Thoại với các thầy cô trong trường, cuối tuần chui vào các rạp chiếu bóng bình dân chiếu thường trực 2 phim cũ nói tiếng Quan thoại, thường là một phim xưa cổ trang 古装, và một phim thời đại mới 时代装 để học nghe tiếng Quan Thoại cả xưa lẫn nay, dần dần tôi nói năng trôi chảy, cộng thêm số vốn văn học Hán Việt có sẵn, lại có hoa tay, viết chữ đẹp nên ông Sự Vụ Trưởng 事務主任 của trường Phước Đức giới thiệu tôi lên Ban Mê Thuộc để dạy học, năm đó là năm 1966, tôi vừa tròn 18 tuổi....
Vì lý do như thế, cho nên tôi đâu có dám về trường Tân Hưng ở Cái Răng xin dạy học.... Chỉ đem chuông đi đấm xứ người, mãi cho đến ngày miền Nam thất thủ (1975), ông thầy cũ của tôi đang là Hiệu Phó của trường Tân Hưng mới kêu tôi xuống trường Tân Hưng dạy học....
Vì thế, ý tôi muốn trình bày là : Tất cả những kiến thức Văn Hóa Hoa Việt của tôi, đa phần là từ tiếng Việt học ngược qua tiếng Hoa. Như giai thoại về Câu đối trong Anh Hùng Xạ Điêu của Kim Dung chẳng hạn, tôi chỉ xem bằng bản dịch tiếng Việt, rồi dịch ngược trở lại ( hồi đó đâu có tiền mà mua hoặc mướn sách chữ Tàu mà xem, muốn mướn phải đi tới Cần Thơ mới có, hơn nữa xem cũng chưa chắc đã hiểu hết, cứ lật Tự Điển mãi thì xem tới chừng nào ! ) cho nên mới có những trục trặc về kiến thức lộn xộn không giống ai cả ! Còn về việc học thi Tú Tài thì mãi đến sau biến cố năm Mâu Thân, khi đi lính theo lệnh Tổng động viên rồi, mới mua sách về tự học, nhờ có điểm lính nên năm 1970 mới đậu được Tú Tài I và năm sau 1971 đậu luôn Tú Tài II, tất cả đều là ban D cổ ngữ. Ghi danh vào Ban Việt Hán của Đại Học Văn Khoa Sài Gòn ở số 12 Đinh Tiên Hoàng Quận Nhứt, nhưng đâu có thời gian về trường nghe giảng, chỉ lấy tài liệu về tự học mà thôi. Năm 1972 là năm Mùa Hè Đỏ Lửa, nên không về trường thi được, mãi đến hè 1973 mới đậu được Chứng Chỉ Dự Bị Năm Thứ Nhất, Hè 1974 mắc bận lu bu với công tác Trao đổi tù binh, nên cũng không có thi cử gì cả. Năm 1975 thì khỏi phải nói ... "sự nghiệp học hành" chấm dứt luôn từ đó !
Sau nầy , tôi được thỉnh giảng dạy Đại Học là nhờ tôi.... học đại... những kiến thức của Đại Học Bắc Kinh gởi qua cho nhà trường làm tài liệu giảng dạy. Luôn luôn tôi phải học ngày trước, dạy lại ngày sau, nếu không , lấy ra đâu kiến thức mà dạy, nhờ sinh viên yêu mến, nên tôi cũng lây lất qua ngày cho đến ngày định cư ở Mỹ 1998 ....tôi lại làm lại cái nghề lúc mới ra đời : Lao công trường học, nhưng ở đây là trường học Mỹ , công việc tương đối nhẹ nhàng và thoải mái hơn lao công trường học ở VN nhiều, vì không có ai dám xem thường hay sai bảo mình điều gì cả ....
Hiện tôi đã về hưu được hơn 3 năm rồi và đang sống ở thành phố Houston bang Texas của Hoa Kỳ để chờ ngày về với ông bà tiên tổ ! ....
Trước khi đọc tiếp phần hồi ký THA PHƯƠNG CẦU THỰC, xin mời cùng đọc bài thơ Cung Oán nổi tiếng sau đây :
Trường Tín Thu Từ của Vương Xương Linh gồm ba bài, nhưng bài giữa là bài hay nhất và có nhiều người biết nhất, bài nầy còn có tên là Trường Tín Oán, được trích trong số 300 bài của tập Đường Thi Tam Bá Thủ. Bây giờ thì ta cùng đọc bài thơ nầy nhé !
長信怨 TRƯỜNG TÍN OÁN
王昌齡 Vương Xương Linh
奉帚平明金殿開, Phụng trữu bình minh kim điện khai,
暫將團扇共徘徊。 Tạm tương đoàn phiến cộng bồi hồi.
玉顏不及寒鴉色, Ngọc nhan bất cập hàn nha sắc,
猶帶昭陽日影來。 Do đái chiêu dương nhật ảnh lai
Chú thích :
1. Trường Tín, Chiêu Dương : Tên của 2 cung trong hoàng cung của nhà vua.
Trường Tín Oán : là nỗi oán hờn trong cung Trường Tín.
2. Phụng Trữu : Phụng : là bưng, là cầm. Trữu : là cây chổi.
3. Tạm Tương : Tạm : là đở, là tạm thời. Tương : là đem, là lấy. Tạm Tương ở đây có nghĩa là Cầm đở, không có cái gì để cầm thì cầm tạm cái gì đó.
4. Đoàn Phiến : Đoàn : là tròn trịa, Phiến là cây quạt. Đoàn Phiến là Cây quạt hình tròn.
5. Ngọc Nhan : là chỉ Dung nhan đẹp như ngọc, thường dùng để ví với nhan sắc của các giai nhân người đẹp.
6. Hàn Nha : Hàn là Lạnh, Nha là Con Quạ. Hàn Nha là Con quạ lạnh lẽo trong đêm thu.
7. Do là Liên từ, có nghĩa là Còn. Đái : là mang, là xách, là dẫn dắt.
8. Nhựt Ảnh : là Bóng mặt trời, ở đây có nghĩa là Ánh Nắng, ánh sáng mặt trời.
Dịch nghĩa :
Cầm cây chổi để quét lá thu vàng rụng trong buổi bình minh khi điện vàng vừa mở cửa,( sau đó ) nàng mân mê cánh quạt lụa tròn theo thói quen cầm tay, nhưng đã hết công dụng trong mùa thu mát mẻ nầy. Oán hận vì thương cho nhan sắc đẹp như ngọc của mình lại không bằng được con quạ lạnh lẽo trong đêm vừa bay đến, vì con quạ tuy lạnh lẽo, nhưng còn mang được ánh nắng ấm áp của điện Chiêu Dương, nơi mà nhà vua đang ngự, còn mình thì....
Diễn nôm :
Điện vàng, tay chổi, sáng mờ sương,
Quạt lụa bâng khuâng nỗi đoạn trường,
Vẻ ngọc không bằng con quạ lạnh,
Còn mang ánh nắng điện Chiêu Dương !
Lục bát :
Điện vàng mở, chổi cầm tay,
Bâng khuâng quạt lụa ai hoài xót thương.
Không bằng quạ lạnh kêu sương,
Còn mang ánh nắng Chiêu Dương đến gần
Đỗ Chiêu Đức.