空翠浮煙色, Không thúy phù yên sắc,
春藍發水紋。 Xuân lam phát thủy văn.
墻烏啼落照, Tường ô đề lạc chiếu,
野雁送歸雲。 Dã nhạn tống quy vân.
漁火前灣見, Ngư hỏa tiền loan kiến,
樵歌隔岸聞。 Tiều ca cách ngạn văn,
旅顏悲冷落, Lữ nhan bi lãnh lạc,
借酒作微醺。 Tá tửu tác vi huân.
- Vãn Cảnh 晚景 : là Cảnh Đêm, là Cảnh trí lúc về đêm.
- Thúy 翠 : là Màu xanh biếc.
- Thủy Văn 水紋 : là Vết nhăn của nước, có nghĩa là Mặt nước chỉ gợn sóng lăn tăn.
- Lạc Chiếu 落照 : là Ánh nắng còn rơi rớt lại lúc chiều tàn.
- Ngư Hỏa 漁火 : là Lửa của cá, là Đèn đóm trên các ghe chài lưới.
- Loan 灣 : là Khúc quanh của con sông.
- Tiều Ca 樵歌 : là Tiếng hát hò của những tiều phu đốn củi.
- Lữ Nhan 旅顏 : là Nét mặt của người lữ thứ xa quê hương.
- Vi Huân 微醺 : là Say nhẹ, là Chếnh choáng say.
Tầng không xanh biếc nổi lên những sắc màu như sương khói. Dòng nước xuân xanh lam chỉ gợn sóng lăn tăn. Những con qụa trên tường kêu oang oác dưới ánh nắng chiều còn rơi rớt lại, trên không đàn nhạn đang bay gấp như đang đưa tiễn các đám mây bay trở về. Đèn đóm của các ghe chài lưới đã thấp thoáng ở khúc quanh phía trước của dòng sông, và tiếng hát hò của các tiều phu bên kia bờ đã vang lên trên đường đi về. (Trước cảnh chiều tàn nầy) Mặt người lữ khách đượm buồn trong buổi chiều lạnh lẽo cô liêu, nên mới mượn chung rượu để chếnh choáng say (cho vơi đi mối sầu lữ thứ)!
Đây là bài thơ cuối cùng còn sót lại của Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi, mà cũng là bài thơ cuối cùng trên đường đi sứ. Ngồi trên ghe nhìn trời nhìn nước trong buổi chiều tàn, thấp thoáng lửa chài, đâu đó tiếng qụa kêu, đàn nhạn bay về trong tiếng hát cách bờ của các tiều phu cũng đang vội vã quay về. Trước cảnh lạnh lẽo cô liêu của buổi chiều trên sông nước càng gợi thêm mối sầu lữ thứ của kẻ xa quê. Uống chút rượu để chếnh choáng say cho càng thấm thía hơn cái nỗi buồn trên sông nước !