永營有懷 VĨNH DINH HỮU HOÀI
別此繁華十幾年, Biệt thử phồn hoa thập kỷ niên,
而今重過大非前。 Nhi kim trùng qúa đại phi tiền.
眼中里落多彫耗, Nhỡn trung lý lạc đa điêu háo,
心上知交半瘠捐。 Tâm thượng tri giao bán tích quyên.
人雜肆移前後市, Nhân tạp tứ di tiền hậu thị,
潦深平浸夏秋田。 Lạo thâm bình tẩm hạ thu điền.
棠梨見說猶濃蔭, Đường lê kiến thuyết do nùng ấm,
客步低絗思惘然。 Khách bộ đê hồi tứ võng nhiên.
阮忠彥 Nguyễn Trung Ngạn
* Chú Thích :
- Hữu Hoài 有懷 : Có hoài cảm, là có xúc cảm về... cái gì đó.
- Đại Phi Tiền 大非前 : ĐẠI ở đây là Trạng Từ, có nghĩa như Rất, Lắm; PHI TIỀN là Khác Trước, nên ĐẠI PHI TIỀN có nghĩa là Rất khác trước, là Khác trước rất xa.
- Lý Lạc 里落 : Lý là Hương Lý; LẠC là Bộ lạc, nên LÝ LẠC là từ kép chỉ Làng xóm, Láng giềng.
- Điêu Háo 彫耗 : ĐIÊU là Tàn tạ héo úa, HÁO vốn âm HAO, đọc HÁO cho đúng Bằng Trắc. HAO là Hao tổn, nên ĐIÊU HAO là Điêu tàn tiêu điều linh lạc.
- Tích Quyên 瘠捐 : TÍCH là Gầy còm ốm yếu; QUYÊN là Hiến, là Bỏ, như Quyên Sinh là Bỏ mạng sống là chết; nên TÍCH QUYÊN là Bệnh tật và chết chóc.
- Nhân Tạp Tứ Di 人雜肆移 : Người thì Tạp nhạp, Quán xá (TỨ) thì Dời đổi (DI).
- Lạo Thâm Bình Tẩm 潦深平浸 : Đầm nước đọng (LẠO) thì sâu ngập bằng cả mặt nước (BÌNH TẨM).
- Đường Lê 棠梨 : Một loại Lê, còn gọi là Cam Đường, trái ngon ngọt. CAM ĐƯỜNG còn là tên một bài thơ trong thiên Thiệu Nam 詩經,召南 của Kinh Thi, kể lại tích của Thiệu Bá (Thiệu Công Thích) đời nhà Chu. Ông làm quan thanh liêm, tính tình giản dị, khi đi kinh lý các đất ở phương nam, ông thường hay ngồi dưới gốc cây cam đường để nghỉ ngơi, làm việc và xử án. Dân chúng cảm mến nên bảo vệ cây cam đường và làm thơ ca ngợi như sau :
蔽芾甘棠, Tế phế Cam đường,
勿翦勿伐, Vật tiễn vật phạt,
召伯所茇。 Thiệu Bá sở bạt.
蔽芾甘棠, Tế phế cam đường,
勿翦勿敗, Vật tiễn vật bị (bại),
召伯所憩。 Thiệu Bá sở khí.
蔽芾甘棠, Tế phế cam đường,
勿翦勿拜, Vật tiễn vật bế (bái),
召伯所說。 Thiệu Bá sở thuế (thuyết).
Có nghĩa :
Cam đường cành lá xanh xanh,
Xin đừng cắt xén xin đừng đốn cây,
Thiếu Bá đã từng ngồi đây.
Cam đường cành lá xanh um,
Xin đừng cắt xén xin đừng phá cây,
Thiếu Bá từng nghỉ nơi đây.
Cam đường cành lá um tùm,
Xin đừng cắt xén xin đừng bẻ cong,
Thiếu Bá đã từng dừng chân.
- Nùng Ấm 濃蔭 : NÙNG là Đậm đà, rậm rạp; ẤM là cái bóng cây, nên NÙNG ẤM chỉ Bóng cây to rậm rạp. - Đê Hồi 低絗 : là Chỉ tơ rối nùi.
- Võng Nhiên 惘然 : là Hoang mang, mơ hồ, thấp thỏm không yên.
* Nghĩa bài thơ :
CẢM XÚC KHI ĐẾN VĨNH DINH
Từ biệt với chốn phồn hoa đô hội nầy cũng đã mười mấy năm trời rồi, nên nay khi trở lại thì thấy khác xa trước đây rất nhiều. Làng xóm nhìn qua một lượt thì thấy đã tiêu điều tàn tạ, còn bạn bè tri giao thân thuộc ngày xưa giờ đã già yếu chết chóc hơn phân nửa rồi. Chợ búa trước sau thì quán xá đã di dời nhân sự thì hỗn tạp, nước của các đầm sâu tràn ngập bằng cả đồng ruộng của vụ hè thu. Nghe thấy cây đường lê vẫn còn phủ bóng rậm rạp, nên chi khách bước đi mà lòng rối nùi như tơ, trong dạ hoang mang không dứt.
Người cũ trở về đây, nhưng cảnh cũ đâu còn nữa, cả nhân sự cũng đổi thay, chỉ còn có cây đường lê trước ngõ là vẫn còn rợp bóng xanh om, khiến cho người viễn khách trở lại chốn xưa không khỏi bồi hồi cảm xúc !
* Diễn Nôm :
VĨNH DINH HỮU CẢM
Cách biệt phồn hoa qúa chục năm,
Khác xa khi trước lúc về thăm.
Xóm làng nơi đổi nơi tan tác...
Bè bạn kẻ già kẻ mất tăm...
Chợ búa trước sau người tạp nhạp,
Hè thu đồng ruộng nước tràn xâm.
Đường lê rợp bóng như ngày trước,
Khách bước chân chồn vẻ khổ tâm.
Lục bát :
Phồn hoa cách biệt mười năm,
Khác xa lúc trước về thăm nơi nầy.
Xóm làng tan tác đó đây,
Bạn xưa kẻ chết người gầy già nua.
Trước sau chợ chẳng như xưa,
Đầm sâu ruộng ngập lúa vừa hè thu.
Đường lê rợp bóng thâm u,
Khách dồn chân bước rối bù tâm can.
Đỗ Chiêu Đức