Theo U MINH LỤC của Lưu Nghĩa Khánh đời Tống(宋.劉義慶《幽明錄》)chép rằng :
Năm Vĩnh Bình thứ 5 đời Hán Minh Đế ( Công nguyên năm 62 ), người đất Diễm ( thuộc tỉnh Chiết Giang hiện nay ) là LƯU THẦN và NGUYỄN TRIỆU vào Thiên Mụ sơn để hái thuốc. Thiên Mụ Sơn gồm có Lưu Môn sơn, Tế Tiêm, Đại Tiêm, Phất Vân Tiêm, Ba Tiêu sơn và Liên Hoa Phong quần tụ mà thành, thế núi hiễm trở, phong đỉnh chập chùng, cao nguyên rộng lớn, hoa cỏ rậm rạp xanh tươi, rừng núi bạt ngàn, muôn màu muôn vẻ. Lưu Nguyễn mãi mê hái thuốc, lạc sâu mãi trong rừng hoa thơm cỏ lạ, tới chừng nhìn lại thì trời đã về chiều, bụng lại đói meo. May sao bên triền núi có mấy cây đào mọc theo khe suối, nhằm lúc đào đang chín rộ, bèn hái lấy mấy trái mà ăn đỡ đói, nào ngờ đó là đào tiên, ăn vào ngon ngọt và thơm tho cả mồm miệng, khí lực lại sung mãn, bèn lần theo khe suối mà đi lên, đến một nơi khe nước rộng, trời đất như mở ra một thế giới mới, với hoa thơm cỏ lạ ven bờ, với oanh yến líu lo kêu hót, hai chàng lấy ly ra để múc nước suối uống, thì thấy bên bờ khe đã đứng sẵn 2 nàng con gái tuyệt đẹp, cười mà rằng : " Hai chàng Lưu Nguyễn sao lại đến muộn thế ? " Bèn thân mật như người quen đã lâu năm, rước 2 chàng cùng về động phủ. Trong động như có trời đất riêng, phòng ốc khang trang tráng lệ, đã thiết bị sẵn 2 phòng hoa chúc, ngọc chuốc vàng treo, mười phần hoa lệ. Tiệc hoa cũng đã bày sẵn , tiên nữ tới lui tấp nập, cùng mời 2 chàng nhập tiệc với đầy đủ sơn hào hải vị. Xóm đông có các tiên nương cùng mang đến một mâm đào tiên, cười chúc cho hai nàng đã đón được hai chàng rể quí Lưu Nguyễn vừa du nhập Thiên Thai. Tiệc hoa vui vầy, rượu tiên thơm lừng, chưa nhấp đã say, hòa trong tiếng sanh ca hoan lạc, đưa hai chàng cùng vào động phòng với hai tiên tử trong tiếng tiên nhạc du dương ngây ngất !...Nhưng chỉ quá mươi ngày sau, Lưu Nguyễn cùng nhớ quê xin về, hai nàng cố cầm giữ lại, được hơn nửa năm, mặc dù bên mình luôn có người đẹp...như tiên, nhưng khi nghe tiếng Tử Qui gọi Xuân thắm thiết, hai chàng càng nghe lòng nhớ quê mãnh liệt hơn lên và nhất định xin về. Hai nàng đành phải buộc lòng đặt tiệc tiễn hành và chỉ lối để hai chàng về quê với biết bao là tình thương quyến luyến, bịn rịn chẳng nỡ rời xa !...
Về đến làng quê, thấy mọi cảnh vật đều đổi khác, tìm không thấy nhà cửa của mình ở đâu nữa. Hỏi thăm trong họ tộc, thì có một cụ già cho biết rằng : Ông Tổ bảy đời của họ đi vào núi hái thuốc rồi lạc mất đường không thấy trở về. Lưu Nguyễn ở trên Thiên Thai nửa năm, nhưng ở dưới núi đã qua đến 7 đời con cháu. Hỏi ra, thì bấy giờ đã vào năm Thái Nguyên Thứ 8 của đời nhà TẤN rồi ( Công Nguyên năm 388 ) hơn 300 năm sau rồi !. Hai người đành qua trở lại Thiên Thai, nhưng đã không còn tìm được đường lên Tiên động nữa !
Trong những bài thơ vịnh về LƯU NGUYỄN LẠC THIÊN THAI, phải kể đến 5 bài trong ĐẠI DU TIÊN THI của TÀO ĐƯỜNG đời Đường là tiêu biểu và nổi tiếng nhất.
Xin được giới thiệu 3 trong số 5 bài thơ đó cùng tác giả TÀO ĐƯỜNG sau đây ....
Theo U MINH LỤC của Lưu Nghĩa Khánh đời Tống(宋.劉義慶《幽明錄》)chép rằng :
Năm Vĩnh Bình thứ 5 đời Hán Minh Đế ( Công nguyên năm 62 ), người đất Diễm ( thuộc tỉnh Chiết Giang hiện nay ) là LƯU THẦN và NGUYỄN TRIỆU vào Thiên Mụ sơn để hái thuốc. Thiên Mụ Sơn gồm có Lưu Môn sơn, Tế Tiêm, Đại Tiêm, Phất Vân Tiêm, Ba Tiêu sơn và Liên Hoa Phong quần tụ mà thành, thế núi hiễm trở, phong đỉnh chập chùng, cao nguyên rộng lớn, hoa cỏ rậm rạp xanh tươi, rừng núi bạt ngàn, muôn màu muôn vẻ. Lưu Nguyễn mãi mê hái thuốc, lạc sâu mãi trong rừng hoa thơm cỏ lạ, tới chừng nhìn lại thì trời đã về chiều, bụng lại đói meo. May sao bên triền núi có mấy cây đào mọc theo khe suối, nhằm lúc đào đang chín rộ, bèn hái lấy mấy trái mà ăn đỡ đói, nào ngờ đó là đào tiên, ăn vào ngon ngọt và thơm tho cả mồm miệng, khí lực lại sung mãn, bèn lần theo khe suối mà đi lên, đến một nơi khe nước rộng, trời đất như mở ra một thế giới mới, với hoa thơm cỏ lạ ven bờ, với oanh yến líu lo kêu hót, hai chàng lấy ly ra để múc nước suối uống, thì thấy bên bờ khe đã đứng sẵn 2 nàng con gái tuyệt đẹp, cười mà rằng : " Hai chàng Lưu Nguyễn sao lại đến muộn thế ? " Bèn thân mật như người quen đã lâu năm, rước 2 chàng cùng về động phủ. Trong động như có trời đất riêng, phòng ốc khang trang tráng lệ, đã thiết bị sẵn 2 phòng hoa chúc, ngọc chuốc vàng treo, mười phần hoa lệ. Tiệc hoa cũng đã bày sẵn , tiên nữ tới lui tấp nập, cùng mời 2 chàng nhập tiệc với đầy đủ sơn hào hải vị. Xóm đông có các tiên nương cùng mang đến một mâm đào tiên, cười chúc cho hai nàng đã đón được hai chàng rể quí Lưu Nguyễn vừa du nhập Thiên Thai. Tiệc hoa vui vầy, rượu tiên thơm lừng, chưa nhấp đã say, hòa trong tiếng sanh ca hoan lạc, đưa hai chàng cùng vào động phòng với hai tiên tử trong tiếng tiên nhạc du dương ngây ngất !...Nhưng chỉ quá mươi ngày sau, Lưu Nguyễn cùng nhớ quê xin về, hai nàng cố cầm giữ lại, được hơn nửa năm, mặc dù bên mình luôn có người đẹp...như tiên, nhưng khi nghe tiếng Tử Qui gọi Xuân thắm thiết, hai chàng càng nghe lòng nhớ quê mãnh liệt hơn lên và nhất định xin về. Hai nàng đành phải buộc lòng đặt tiệc tiễn hành và chỉ lối để hai chàng về quê với biết bao là tình thương quyến luyến, bịn rịn chẳng nỡ rời xa !...
Về đến làng quê, thấy mọi cảnh vật đều đổi khác, tìm không thấy nhà cửa của mình ở đâu nữa. Hỏi thăm trong họ tộc, thì có một cụ già cho biết rằng : Ông Tổ bảy đời của họ đi vào núi hái thuốc rồi lạc mất đường không thấy trở về. Lưu Nguyễn ở trên Thiên Thai nửa năm, nhưng ở dưới núi đã qua đến 7 đời con cháu. Hỏi ra, thì bấy giờ đã vào năm Thái Nguyên Thứ 8 của đời nhà TẤN rồi ( Công Nguyên năm 388 ) hơn 300 năm sau rồi !. Hai người đành qua trở lại Thiên Thai, nhưng đã không còn tìm được đường lên Tiên động nữa !
Trong những bài thơ vịnh về LƯU NGUYỄN LẠC THIÊN THAI, phải kể đến 5 bài trong ĐẠI DU TIÊN THI của TÀO ĐƯỜNG đời Đường là tiêu biểu và nổi tiếng nhất.
Xin được giới thiệu 3 trong số 5 bài thơ đó cùng tác giả TÀO ĐƯỜNG sau đây ....
Theo U MINH LỤC của Lưu Nghĩa Khánh đời Tống(宋.劉義慶《幽明錄》)chép rằng :
Năm Vĩnh Bình thứ 5 đời Hán Minh Đế ( Công nguyên năm 62 ), người đất Diễm ( thuộc tỉnh Chiết Giang hiện nay ) là LƯU THẦN và NGUYỄN TRIỆU vào Thiên Mụ sơn để hái thuốc. Thiên Mụ Sơn gồm có Lưu Môn sơn, Tế Tiêm, Đại Tiêm, Phất Vân Tiêm, Ba Tiêu sơn và Liên Hoa Phong quần tụ mà thành, thế núi hiễm trở, phong đỉnh chập chùng, cao nguyên rộng lớn, hoa cỏ rậm rạp xanh tươi, rừng núi bạt ngàn, muôn màu muôn vẻ. Lưu Nguyễn mãi mê hái thuốc, lạc sâu mãi trong rừng hoa thơm cỏ lạ, tới chừng nhìn lại thì trời đã về chiều, bụng lại đói meo. May sao bên triền núi có mấy cây đào mọc theo khe suối, nhằm lúc đào đang chín rộ, bèn hái lấy mấy trái mà ăn đỡ đói, nào ngờ đó là đào tiên, ăn vào ngon ngọt và thơm tho cả mồm miệng, khí lực lại sung mãn, bèn lần theo khe suối mà đi lên, đến một nơi khe nước rộng, trời đất như mở ra một thế giới mới, với hoa thơm cỏ lạ ven bờ, với oanh yến líu lo kêu hót, hai chàng lấy ly ra để múc nước suối uống, thì thấy bên bờ khe đã đứng sẵn 2 nàng con gái tuyệt đẹp, cười mà rằng : " Hai chàng Lưu Nguyễn sao lại đến muộn thế ? " Bèn thân mật như người quen đã lâu năm, rước 2 chàng cùng về động phủ. Trong động như có trời đất riêng, phòng ốc khang trang tráng lệ, đã thiết bị sẵn 2 phòng hoa chúc, ngọc chuốc vàng treo, mười phần hoa lệ. Tiệc hoa cũng đã bày sẵn , tiên nữ tới lui tấp nập, cùng mời 2 chàng nhập tiệc với đầy đủ sơn hào hải vị. Xóm đông có các tiên nương cùng mang đến một mâm đào tiên, cười chúc cho hai nàng đã đón được hai chàng rể quí Lưu Nguyễn vừa du nhập Thiên Thai. Tiệc hoa vui vầy, rượu tiên thơm lừng, chưa nhấp đã say, hòa trong tiếng sanh ca hoan lạc, đưa hai chàng cùng vào động phòng với hai tiên tử trong tiếng tiên nhạc du dương ngây ngất !...Nhưng chỉ quá mươi ngày sau, Lưu Nguyễn cùng nhớ quê xin về, hai nàng cố cầm giữ lại, được hơn nửa năm, mặc dù bên mình luôn có người đẹp...như tiên, nhưng khi nghe tiếng Tử Qui gọi Xuân thắm thiết, hai chàng càng nghe lòng nhớ quê mãnh liệt hơn lên và nhất định xin về. Hai nàng đành phải buộc lòng đặt tiệc tiễn hành và chỉ lối để hai chàng về quê với biết bao là tình thương quyến luyến, bịn rịn chẳng nỡ rời xa !...
Về đến làng quê, thấy mọi cảnh vật đều đổi khác, tìm không thấy nhà cửa của mình ở đâu nữa. Hỏi thăm trong họ tộc, thì có một cụ già cho biết rằng : Ông Tổ bảy đời của họ đi vào núi hái thuốc rồi lạc mất đường không thấy trở về. Lưu Nguyễn ở trên Thiên Thai nửa năm, nhưng ở dưới núi đã qua đến 7 đời con cháu. Hỏi ra, thì bấy giờ đã vào năm Thái Nguyên Thứ 8 của đời nhà TẤN rồi ( Công Nguyên năm 388 ) hơn 300 năm sau rồi !. Hai người đành qua trở lại Thiên Thai, nhưng đã không còn tìm được đường lên Tiên động nữa !
Trong những bài thơ vịnh về LƯU NGUYỄN LẠC THIÊN THAI, phải kể đến 5 bài trong ĐẠI DU TIÊN THI của TÀO ĐƯỜNG đời Đường là tiêu biểu và nổi tiếng nhất.
Xin được giới thiệu 3 trong số 5 bài thơ đó cùng tác giả TÀO ĐƯỜNG sau đây ....
1.SƠ LƯỢC VỀ TÀO ĐƯỜNG.
TÀO ĐƯỜNG tự là Nghiêu Tân, người đất Quế Châu ( thuộc Quế Lâm Quảng Châu hiện nay ). Không rõ năm sanh và mất. Lúc đầu xuất gia làm Đạo Sĩ, sau ứng thi Tiến Sĩ giữa năm Đại Trung, nhưng không đỗ. Khoảng năm Hàm Phong ( 860-874 ) tùng sự ở Chư Phủ. Tào sống cùng thời với La Ẩn 罗隐, tài thơ ngang nhau, Tào thường truy cứu hâm mộ tình tự cao nhã của các bậc thần tiên, nên sáng tác các thiên " Đại du tiên thi 大游仙诗 ", " Tiểu du tiên thi 小游仙诗 " gồm 50 thiên, tả lại những nỗi bi hoan ly hợp của chư tiên nhân để phổ biến và truyền lại đời sau. Tào Đường lại rất thường gặp La Ẩn để trao đổi Ý kiến về những bài thơ mà mình mới sáng tác.
DỊCH NGHĨA :
TRỞ LẠI THIÊN THAI KHÔNG GẶP ĐƯỢC TIÊN NỮ
Trở lại Thiên Thai để tìm gặp Tiên nương ( Ngọc Chân : chỉ chung phái nữ tu thành tiên ). Chỉ thấy rêu xanh và đá trắng đều hóa thành tro bụi cả rồi. Trong động sâu đã vắng vẻ không còn tiếng sanh ca như ngày nào, hàng xóm cũng vắng tanh tiêu điều như mây hạc bay xa. Cỏ cây hoa lá không còn vẻ hương sắc của ngày xưa, yên hà mây khói cũng không còn nhuốm sắc tươi như mùa xuân cũ. Hoa đào nước cuốn cũng vẫn còn đó như trước kia, chỉ có người chuốc rượu đưa tiễn năm xưa thì không còn tìm đâu thấy nữa !
*. NGỌC CHÂN : là Công Chúa Ngọc Chân 玉真公主, tên là LÝ TRÌ DOANH 李持盈 ( 692-762 ),cháu nội của Võ Tắc Thiên đời Đường. Theo Đạo Giáo xuất gia làm đạo cô, lấy hiệu là HUYỀN HUYỀN, đắc đạo thành tiên, nên thường dùng để chỉ chung cho các nàng tiên nữ.
DIỄN NÔM :
TRỞ LẠI THIÊN THAI
Quay trở lại Thiên Thai chốn cũ,
Đá rêu xanh đã phủ bụi trần,
Sanh ca vắng vẻ động xuân,
Tiêu điều mây hạc xóm gần làng xa.
Cỏ cây cũng nhạt nhòa hương sắc,
Yên hà như cũng nhắc xuân thừa,
Hoa đào nước cuốn như xưa,
Đâu người chuốc rượu tiễn đưa dạo nào !?
LƯU NGUYỄN NHẬP THIÊN THAI
劉晨阮肇遊天台 LƯU THẦN NGUYỄN TRIỆU DU THIÊN THAI
樹入天台石路新, Thụ nhập thiên thai thạch lộ tân,
雲和草靜迥無塵。 Vân hoà thảo tĩnh quýnh vô trần.
煙霞不省生前事, Yên hà bất tỉnh sinh tiền sự,
水木空疑夢後身。 Thuỷ mộc không nghì mộng hậu thân.
往往雞鳴岩下月, Vãng vãng kê minh nham hạ nguyệt,
時時犬吠洞中春。 Thời thời khuyển phệ động trung xuân.
不知此地歸何處, Bất tri thử địa quy hà xứ,
須就桃源問主人。 Tu tựu Đào Nguyên vấn chủ nhân
曹唐 TÀO ĐƯỜNG
DỊCH NGHĨA :
LƯU THẦN NGUYỄN TRIỆU DU NGOẠN THIÊN THAI
Hàng cây dẫn nhập thiên thai với con đường đá mới, mây hòa quyện lấy cỏ trong thanh tĩnh không vướng chút bụi trần. Khói ráng mông lung như không rõ được truyện của kiếp trước, Suối nước và rừng cây cũng mờ ảo như còn ngờ ngợ thân ta như sau cơn mộng mị. Luôn luôn như nghe được tiếng gà gáy ở mõm đá dưới ánh trăng, và như lúc nào cũng có tiếng chó sủa trong động xuân. Không biết là nơi đây sẽ đưa đến nơi đâu, chỉ còn có nước là tìm chủ nhân của xứ Đào Nguyên nầy mà hỏi !?...
DIỄN NÔM :
LƯU NGUYỄN NHẬP THIÊN THAI
Cây dẫn nhập Thiên Thai cao vút ,
Cỏ mây vương chẳng chút bụi trần,
Yên hà không nhớ tiền thân,
Nước mây luống những bâng khuâng mộng hồn.
Tiếng gà gáy dập dồn trăng tỏa ,
Văng vẳng xa chó sủa động xuân,
Đào nguyên dám hỏi chủ nhân,
Rằng đây dẫn lối xa gần Thiên Thai ?
Đỗ Chiêu Đức
3. BÀI 2 : THIÊN THAI TỐNG BIỆT
僊子送劉阮出洞 TIÊN TỬ TỐNG LƯU NGUYỄN XUẤT ĐỘNG
殷勤相送出天台, Ân cần tương tống xuất Thiên Thai,
僊境那能卻再來。 Tiên cảnh na năng khước tái lai.
雲液既歸須強飲, Vân dịch kí qui tu cưởng
玉書無事莫頻開。Ngọc thơ vô sự mạc tần khai.
花留洞口應長在, Hoa lưu động khẩu ưng trường tại,
水到人間定不回。Thủy đáo nhân gian định bất hồi.
惆悵溪頭從此別, Trù trướng khê đầu tòng thử biệt,
碧山明月照蒼苔。Bích sơn minh nguyệt chiếu thương đài !
TÀO ĐƯỜNG
DỊCH NGHĨA :
TIÊN TỬ ĐƯA LƯU NGUYỄN RỜI THIÊN THAI
Ân cần đưa tiễn nhau ra khỏi chốn Thiên Thai, Tiên cảnh biết làm sao còn có thể trở lại đây. Đã quyết định đi về nên phải miễn cưởng mà uống cạn chén rượu tiên đưa tiễn ( Vân dịch : tên một loại rượu tiên ). Nếu không có chuyện gì thì không nên thường xuyên mở Ngọc thơ ra xem ( Ngọc Thơ : Sách của Đạo gia tu Tiên ). Hoa lưu lại trước cửa động sẽ còn mãi mãi nơi đây, nhưng nước đã chảy về với dân gian thì chắc chắn sẽ không còn quay trở lại được nữa. Bịn rịn mãi ở đầu khe suối nơi mà từ đây đành cách biệt, chỉ còn trơ lại vầng trăng bạc trên đỉnh núi biếc chiếu lên đám rêu xanh !
DIỄN NÔM :
THIÊN THAI ĐƯA TIỄN
Ân cần tiễn biệt rời tiên động,
Cảnh tiên thôi hi vọng trở về,
Chén đưa luống những não nề,
Ngọc thơ vô sự chẳng hề mở đâu !
Hoa trước động luôn sầu mong nhớ,
Nước xuôi dòng biết thuở nào về,
Chia tay lòng những tái tê,
Rêu xanh núi biếc trăng thề luyến lưu !
Đỗ Chiêu Đức