客心争日月, Khách tâm tranh nhật nguyệt,
来往预期程。 Lai vãng dự kỳ trình.
秋風不相待, Thu phong bất tương đãi,
先至洛陽城。 Tiên chí Lạc Dương thành.
Giữa những năm Tiên Thụ của triều Võ Tắc Thiên (690-692), lúc đó Trương Duyệt đang giữ chức Hiêu Thư Lang, hai lần được cử đi sứ xứ Tây Thục. Các chuyến đi đều đã được dự tính sẵn ngày về, nhưng vì công vụ trể nãi nên phải về muộn. Vì thế nên mới có bài thơ nầy.
- Thục Đạo 蜀道 : THỤC là đất Thục thuộc một vùng của tỉnh Tứ Xuyên ngày nay. Thục Đạo là đường đến nước Thục, vì là vùng cao nguyên với các núi non hiễm trở nên đường đi lại khó khăn, như trong bài Thục Đạo Nan của Lý Bạch có câu 蜀道之难,难于上青天!Thục đạo chi nan, nan vu thướng thanh thiên ! Có nghĩa : Đường đi đến đất Thục khó khăn, gian nan như đường đi lên trời xanh !
- Tranh Nhựt Nguyệt 争日月 : là Tranh thủ với ngày tháng.
- Dự Kỳ Trình 预期程 : là Dự tính cả hành trình ngày đi lẫn ngày về.
- Bất Tương Đãi 不相待 : là Không chờ đợi nhau.
- Lạc Dương 洛陽 : là Kinh đô của Võ Tắc Thiên lúc bấy giờ.
ĐƯỜNG THỤC HẸN SAU (Trể Hẹn)
Lòng của kẻ đi đến nơi đất khách xa nhà luôn luôn tranh thủ từng ngày từng tháng, cả chuyến đi lẫn chuyến về đều đã dự tính trước cả rồi.( Nhưng vì đường xá khó khăn và công vụ cho nên trễ hẹn ). Còn ngọn gió thu se sắt thì không chờ đợi ai cả, cứ đến kỳ là thổi vụt vù về đến Lạc Dương thành trước ngay (trong khi ta vẫn còn ở đất Thục chưa kịp quay về !).
Lòng khách tranh ngày tháng,
Đến trước Lạc Dương thành.
Tính ngày tính tháng người đi,
Vãng lai đúng hẹn quy kỳ khít khao.
Gió thu chẳng đợi ai nào,
Một mình phe phẩy thổi vào Lạc Dương.