白鶴江中 BẠCH HẠC GIANG TRUNG
只愛肝腸生鐵石, Chỉ ái can tràng sinh thiết thạch,
豈將頭角怨羲娥。 Khởi tương đầu gốc oán hi nga.
此行塵事關心少, Thử hành trần sự quan tâm thiểu,
惟有東流感慨多。 Duy hữu đông lưu cảm khái đa.
* Chú thích :
- Bạch Hạc Giang Trung 白鶴江中 : là Trên dòng sông Bạch Hạc.
- Can Tràng 肝腸 : là Gan ruột, chỉ Lòng dạ.
- Thiết Thạch 鐵石 : là Sắt đá, chỉ Cứng rắn.
- Đầu Giốc(Giác) 頭角 : Đầu và Sừng, chỉ diện mạo, mặt mũi; dùng rộng ra chỉ tài năng kiệt xuất hơn người; tài hoa xuất chúng...
- Hi Nga 羲娥 : HI là Nhựt Ngự Hi 日御羲 chỉ mặt trời; NGA là Thường Nga 嫦娥 chỉ mặt trăng; nên HI NGA là Mặt trời Mặt trăng, mượn để chỉ Ngày Đêm, dùng rộng ra để chỉ Ngày Tháng, Thời gian.
- Trần Sự 塵事 : Chuyện trần ai thế sự, chuyện đời thường.
* Nghĩa bài thơ :
TRÊN DÒNG SÔNG BẠCH HẠC
Chỉ yêu qúy ở chỗ lòng dạ cứng rắn như là sắt đá, sao lại đem tài hoa của mình mà oán hận trời đất tháng năm ?. Chuyến đi này ta ít quan tâm đến chuyện thế tục tầm thường, chỉ cảm khái cho dòng nước chảy về đông (rồi không bao giờ trở lại nữa !).
Đọc bài thơ nầy của nhà vua, làm cho ta nhớ đến hai câu thơ mở đầu của bài đề từ của Hứa Thận đời Minh cho quyển Tam Quốc Chí của La Quán Trung như sau:
滾滾長江東逝水, Cổn cổn Trường Giang đông thệ thủy,
浪花淘盡英雄。 Lãng hoa đào tận anh hùng.
Có nghĩa :
Trường giang cuồn cuộn nước về đông,
Sóng xô đào thải hết anh hùng...
Cho dù là thánh hiền, vua chúa, hiền nhân quân tử hay anh hùng hảo hán... gì gì đi nữa, thì cũng phải chịu chung cái quy luật của thời gian. Thời gian sẽ như dòng nước chảy về đông sẽ cuốn trôi và xóa nhòa tất cả !...
* Diễn Nôm :
BẠCH HẠC GIANG TRUNG
Chỉ qúy can trường dường sắt đá,
Nở đem tài đức oán trời xanh.
Trên sông thế sự không buồn nhắc,
Cảm khái về đông nước chảy nhanh !
Lục bát :
Can trường thiết thạch những ai,
Tài hoa sao nở oán dài trời cao.
Chuyện đời bỏ mặc để sau,
Về đông nước chảy dạt dào lòng ta !...
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm