牙檣月詩 NHA TƯỜNG NGUYỆT THI
銀魄當天刻漏長, Ngân phách đương thiên khắc lậu trường,
溶溶玉鏡掛牙檣。 Dung dung ngọc kính quải nha tường.
山河滿目光如晝, Sơn hà mãn mục quang như trú,
倚遍欄杆夜未央。 Ỷ biến lan can dạ vị ương !
* Chú thích :
- NHA TƯỜNG NGUYỆT THI 牙檣月詩 : NHA là Ngà Voi, TƯỜNG là Cột Buồm; nên NHA TƯỜNG là Cột buồm được trang trí bằng ngà voi. Vì thế NHA TƯỜNG NGUYỆT THI là "Bài thơ trăng treo cột buồm".
- Ngân Phách 銀魄 : là Cái đĩa bằng bạc, chỉ mặt trăng tròn và sáng.
- Dung Dung 溶溶 : là Tan chảy hòa vào nhau. Quải 掛 : là Treo.
- Trú 晝 : là Ban ngày, nên Quang Như Trú 光如晝 có nghĩa "Sáng như ban ngày".
- Ỷ 倚 là Dựa vào; Biến 遍 là Khắp cùng.
- Dạ Vị Ương 夜未央 : VỊ ƯƠNG là Chưa đến cao điểm; nên DẠ VỊ ƯƠNG là Đêm chưa đến lúc cao điểm, nghĩa là chưa đến giờ Tý, vì giờ Tý là giờ cao điểm của giữa đêm.
* Nghĩa bài thơ :
Bài thơ Trăng Treo Cột Buồm
Một cái đĩa bạc lơ lửng trên bầu trời, thời khắc của cái đồng hồ cứ nhỏ giọt dài dài. Ánh trăng hòa vào không gian như chiếc gương ngọc treo lơ lửng trên cột buồm được nạm ngà voi. Cảnh núi sông bày ra trước mắt sáng rực như ban ngày. Ta đã lần lượt dựa hết lan can quanh thuyền để ngắm trăng, mà đêm vẫn còn chưa về khuya chút nào cả !
* Diễn Nôm :
NHA TƯỜNG NGUYỆT THI
Đĩa bạc giữa trời khắc lậu trôi,
Cột buồm gương ngọc lửng lơ rồi.
Núi sông trước mắt như bừng sáng,
Tựa hết lan can đêm chửa vơi !
Lục bát :
Đêm trôi đĩa bạc giữa trời,
Trong như gương ngọc chơi vơi cột buồm.
Non sông bừng sáng khác thường,
Tựa lan can ngắm đêm trường mênh mang !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm