Khoảng thập niên 1960-1970 của thế kỷ trước, hễ chiều chiều là người ta lại đón báo mới phát hành, để xem tin tức thời sự thì ít, mà để đọc truyện võ hiệp của Kim Dung thì nhiều hơn. Già trẻ lớn bé gì đều say mê theo dõi các tình tiết gay cấn, hấp dẫn, khúc chiết và có đượm chút gì đó như truyện trinh thám của sherlock home. Không phải chỉ có người Việt ở Sài Gòn mà người Hoa ở trong Chợ Lớn cũng thế; và không phải chỉ có dân Sài gòn Chợ lớn mới mê truyện võ hiệp của Kim Dung mà dân Lục tỉnh cũng như thế luôn!
Tôi nhớ, khoảng đầu thập niên bảy mươi, trên tờ báo Tia Sáng có đăng bài phỏng vấn dịch giả truyện Kim Dung là Hàn Giang Nhạn, đại khái có đoạn như sau:
Ký giả báo hỏi dịch giả Hàn Giang Nhạn rằng: Truyện "Xạ Điêu Anh Hùng Truyện" dịch là "Anh Hùng Xạ Điêu" thì đúng rồi, vì xem truyện ai cũng biết, người được ám chỉ là Anh Hùng Xạ Điêu thì ai cũng biết đó là Quách Tĩnh; "Thần Điêu Hiệp Lữ" dịch là "Thần Điêu Đại Hiệp" thì ai cũng biết đó là để ám chỉ Dương Qúa và Tiểu Long Nữ; Nhưng, "Ỷ Thiên Đồ Long Ký 倚天屠龍記" mà dịch là "Cô Gái Đồ Long" thì đọc giả hoang mang và thắc mắc vô cùng. Sao lại là "Cô Gái Đồ Long" ? và Cô Gái Đồ Long là để ám chỉ AI ? Quách Tương, Ân Tố Tố, Chu Chỉ Nhược hay Triệu Mẫn?! Ai là Cô Gái Đồ Long ??!! Lúc đó, dịch giả Hàn Giang Nhạn mới cười và giải thích rằng : Không có ai là "Cô Gái Đồ Long" cả ! Vì truyện dịch từ Minh Báo của Hồng Kông gởi qua từng ngày, dịch ngày nào hay ngày nấy, đâu có ai biết truyện sẽ diễn tiến ra sao. Thấy tựa là "Xạ Điêu Anh Hùng Truyện" thì dịch là "Anh Hùng Xạ Điêu", Thấy "Thần Điêu hiệp Lữ" thì cũng dịch gọn là "Thần Điêu Đại Hiệp", nhưng "Ỷ Thiên Đồ Long Ký 倚天屠龍記" lúc mở đầu truyện, đâu có ai biết được Kim Dung sẽ viết về CÁI GÌ ? Cái tựa "Ỷ Thiên" "Đồ Long" lại rất mơ hồ; Đâu có ai biết đó là "Ỷ Thiên Kiếm" và "Đồ Long Đao" đâu? Còn theo nghĩa thì "Ỷ Thiên" là "Dựa vào trời" có vẻ cao siêu quá; còn "Đồ Long" là "Giết Rồng" nghe hấp dẫn hơn; Đã có "Anh Hùng Xạ Điêu" và "Thần Điêu Đại Hiệp" rồi, thì bây giờ đổi giới tính là nữ cho thành "Cô Gái Đồ Long" đi, nghe vừa lạ tai vừa hấp dẫn vừa gợi tính tò mò của đọc giả nữa. Vì thế mà mới có cái tựa "CÔ GÁI ĐỒ LONG" ra đời. Lúc đó, các bạn người miền Bắc cũng hay nói đùa rằng: Có cô gái nào mà "Đồ" không có "Lông" đâu ?!
Bây giờ, hơn 50 năm sau, nhà văn Chu Vương Miên đem bốn chữ "CÔ GÁI ĐỒ LONG" dịch ngược lại thành "ĐỒ LONG NỮ TỬ 屠龍女子" để châm biếm, mỉa mai hay xỏ xiên nhà văn Kim Dung chăng? Bản thân Kim Dung cũng đâu có biết "Đồ Long Nữ Tử" là ai đâu !?
Nhà văn nhà thơ Chu Vương Miện có trình độ Hán văn thật giỏi, có kiến thức hiểu biết thật rộng về mọi mặt, chỉ tiếc là chỉ nhận định sự việc thiếu nghiêm túc, và theo cảm tính riêng của mình, nên có vẻ như bới lông tìm vết và như có vẻ đố kỵ đối với sự thành công nổi tiếng của nhà văn Kim Dung. Ta hãy đọc đoạn Chu Vương Miện viết trong bài "NƠI VẠN AN TỰ - Phụ lục “Đồ Long nữ tử” của Chu Vương Miện" được trích dưới đây thì sẽ rõ:
"... Qua vài giây suy nghĩ ngắn ngủi giáo chủ Minh Giáo Trương Vô Kỵ trân trọng trả lời:
- Khải bẩm quận chuá kể ra thì cũng hơi dài dòng, chả là xíng xáng Kim Dung [tức Trà Lương Dung tức Louis Cấm Dùng] là một trong 10 vị tài chủ giầu có nứt đó đổ vách nhất Hương Cảng, tiên sinh có nhà in riêng kiêm luôn nhà xuất bản và phát hành sách báo, lại làm chủ một lúc nào là Hồng Kông Minh Báo [nhật báo] rồi Tuần báo rồi Nguyệt báo, lại kiêm nhiệm luôn cả hãng phim Minh Thị, công việc đa đoan bề bộn như vậy nên cái chuyện Kiếm Hiệp Kỳ Tình “Ỷ Thiên Đồ Long Ký” tiên sinh chỉ có thì giờ viết phác hoạ dàn bài, phần còn lại toàn là thuê thợ công nhân nhà văn viết thế vào. Kẻ viết ít thì mươi trang, kẻ nhiều thì vài chục vài trăm trang, viết feiulleton cho báo ngày, Viết xong là hết, có ai ngờ đâu lại ăn khách, lại quay thành phim cinema, rồi lại in ấn thành tác phẩm dầy cộm đồ sộ, bộ nào bộ nấy cũng tròm trèm từ sáu đến tám đến mười tập...
Xin được góp ý:
* Thứ Nhất: KIM DUNG họ TRA 查, không phải họ TRÀ. Tra Lương Dung 查良鏞, chữ DUNG 鏞 có nghĩa là cái Chuông lớn; Ông đã tách chữ DUNG nầy ra thành 2 chữ KIM DUNG 金庸; Chữ DUNG 庸 nầy có nghĩa là Tầm thường, như ta thường nói là DUNG TỤC 庸俗: là Tầm Thường không có gì đặc biệt.
Cố ý đọc sai tên họ người khác là có ý khinh khi ngạo mạn đùa bỡn.
* Thứ Hai: Kim Dung không phải là "... một trong 10 vị tài chủ giầu có nứt đó đổ vách nhất Hương Cảng" như Chu Vương Miện đã nói. Trong tạp chí Tư Bản xuất bản năm 1991, có bài viết "Những tấm gương người Hoa triệu phú của Hồng Kông trong thập niện 90" KIM DUNG chỉ được xếp hàng thứ 64 mà thôi; và ông cũng đã được lấy làm ví dụ để vinh danh là tấm gương điển hình của một nhà văn trở nên giàu có. 在1991年的《资本杂志》的《九十年代香港华人亿万富豪榜》名列中排第64位,他亦被誉为文人致富的典型例子.
Cố ý nói thêm bớt để gièm xiễm châm biếm người khác, ganh tị chăng!?
* Thứ Ba: Kim Dung được sanh ra trong thời loạn (1924) lúc Dân Quốc sơ khai. Quốc Cộng tranh giành đấu đá nhau, nên học hành không ổn định. Năm 1929 học Tiểu học ở huyện Hải Ninh nơi quê nhà của ông; 1946 phải xa nhà học ở Trung học Gia Hưng, 1937 nổ ra toàn quốc kháng chiến chống Nhật, phải di dời vì loạn lạc phải theo trường về các nơi Lâm An, Lệ Thủy... 1938 chuyển đến học ở trường Liên Hiệp Cao Sơ Trung của tỉnh Chiết Giang. 1939 mới tốt nghiệp Sơ Trung (Trung học đệ nhất cấp = Cấp 2). Ông đã cùng các bạn soạn quyển《Cấp Đầu Khảo Sơ Trung Giả 给投考初中者》là sách "Hướng dẫn cho những người mới bắt đấu học Trung học. Sách bán rất chạy. 1941 trong một bài bích báo trong trường, Kim Dung đã viết bài châm biếm cho cái tư tưởng đầu hàng của ông Tổng giám thị trường nên bị đuổi học. Nên lại chuyển qua học ở Đệ Nhất Trung Học ở Cù Châu và 1942 mới tốt nghiệp Cao trung (Tú Tài = Cấp 3). 1944 ông thi vào trường Đại học Chính Trị Trung Ương Trùng Khánh khoa ngoại giao. Vì phản đối một số học sinh là Đảng viên nên bị đuổi học. 1945 Kháng chiến chống Nhật thành công, ông về lại quê nhà, vừa học vừa làm ký giả ngoài giờ cho《Đông nam Nhật Báo 东南日报. 1946 xin vào học ngoại khóa Luật khoa của Đông Ngô Đại Học Thượng Hải, khoa Luật Quốc tế, vừa làm ký giả cho Đại Công Báo của Thượng Hải. 1948 thì tốt nghiệp và được tòa báo điều qua làm phiên dịch cho chi nhánh ở Hồng Kông. 1952 ông được điều phụ trách Phụ trang của《Tân Vãn Báo 新晚报》trong thời gian nầy ông đã viết 2 kịch bản cho Điện ảnh là《Tuyệt Đại Giai Nhân 绝代佳人》và《Lan Hoa Hoa 兰花花》Cũng trong thời gian nầy ông quen biết và làm bạn với Lương Vũ Sinh 梁羽生. 1954, do "Ngô Thị Thái Cực Quyền 吴氏太极拳" và "Bạch Hạc Phái 白鹤派" quảng cáo rầm rộ mở võ đài thi đấu ở Áo Môn (Ma-Cao). Để hưởng ứng phong trào, Tổng biên tập Đại Công báo giao cho Tra Lương Dung và Lương Vũ Sinh viết truyện võ hiệp kỳ tình đăng trên phụ trang của báo để câu khách. Lương Vũ Sinh viết truyện《Long Hổ Đấu Kinh Hoa 龙虎斗京华》còn Tra Lương Dung lấy bút hiệu là KIM DUNG viết truyện《Thư Kiếm Ân Cừu Lục 书剑恩仇录》Cả hai đều nổi tiếng vang dội lúc bấy giờ, đưa tiểu thuyết võ hiệp lên đỉnh cao trào. 1956 ông viết "Bích Huyết Kiếm", 1957 viết "Xạ Điêu Anh Hùng Truyện" đều đăng suốt năm trên《Hương Cảng Thương Báo 香港商报》đầu năm 1959 viết "Tuyết Sơn Phi Hồ" đăng trên《Tân Vãn Báo 新晚报》.
Cuối năm 1959 Kim Dung mới cùng các bạn đứng ra thành lập MINH BÁO《明报》và ông làm việc rất cật lực. Tự mình viết bình luận, xã luận suốt hai mươi mấy năm, được báo giới và bạn bè khen tặng là “Tả thủ tả xã bình, hửu thủ tả tiểu thuyết 左手写社评,右手写小说”. Có nghĩa: "Tay trái viết xã luận, tay phải viết tiểu thuyết"... (Qúy vị nào giỏi chữ Nho cứ dán hai chữ "金庸" nầy vào google thì sẽ đọc được tất cả về cuộc đời sự nghiệp.... của nhà văn Kim Dung).
Sở dĩ tôi phải viết dài dòng như trên để cho thấy là nhà văn Kim Dung tự bản thân mình từ học tập đến lập nghiệp đều do tự mình cố gắng phấn đấu mà có được. Không phải như Chu Vương Miện đã viết:
"... tiên sinh chỉ có thì giờ viết phác hoạ dàn bài, phần còn lại toàn là thuê thợ công nhân nhà văn viết thế vào. Kẻ viết ít thì mươi trang, kẻ nhiều thì vài chục vài trăm trang, viết feiulleton cho báo ngày, Viết xong là hết, có ai ngờ đâu lại ăn khách, lại quay thành phim cinema..."
Viết vô lý như thế mà cũng viết được. Thuê mỗi người viết vài chục trang thì làm sao ráp cho ăn khớp được, không ăn khớp thì làm sao ăn khách và quay thành phim được ?!
Nếu không thích Kim Dung thì thôi, đâu có ai bắt mình phải thích đâu ? Kim Dung cũng không cần Chu Vương Miện phải khen mình, vì cả thế giới đã có qúa nhiều người khen kim Dung rồi ! Nhưng sao lại phải nói những lời châm biếm mát mẻ ganh tị làm chi?
Thì thôi, có bới lông tìm vết để xỏ xiên chê bai Kim Dung thì cũng là thường tình thôi; Nhưng sao lại phải mất lịch sự đến đỗi đụng chạm cả một dân tộc vậy? Có cần phải như thế không!? Mời đọc tiếp bài viết rất vô ý thức và thiếu lịch sự của Chu Vương Miện trong bài "PHỤC VIÊN (VỀ VƯỜN) – Phụ lục “Đồ Long nữ tử” – Chu Vương Miện" sau đây:
"... Trong lán trại của Minh Giáo an toạ trong khu rừng phía sau của Thiếu Lâm Tự giáo chủ Trương Vô Kỵ ngồi chủ trì đại cuộc, bên cạnh là Triệu Mẫn quận chúa có hai vị Tiêu Dao nhị tiên [tức hai vị sứ giả Dương Tiêu và Phạm Dao], Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu, cùng nhị sư bá Dư Liên Châu phái Võ Đang, cuộc họp nội bộ này dùng tiếng Mông Cổ là chính, để khỏi lọt bí mật ra ngoài tiếng Háng chỉ là phụ..."
Lúc đầu tôi cứ tưởng là đánh máy lầm hay sai lỗi Chính tả, nhưng càng đọc về sau thì càng thấy đó là CHỦ Ý muốn LÀM NHỤC DÂN TỘC KHÁC của Chu Vương Miện. Mời đọc các phần trích tiếp của bài viết trên như sau:
"... Phần còn lại là nhà Đại Tống thì do một phần Mông Cổ gọi là Nguyên cai trị, hầu như đa số người Mông Cổ đã bị Háng đồng hóa hết trọi. Hiện giờ trong tình cảnh này, không cần dân Háng vùng dậy đòi tự trị thì quân Mông Cổ từ từ cũng sẽ tan!..."
"... Dân số từ đầu nhà Tống dân hai miền Nam Bắc tính chung là 100 triệu dân, qua 300 năm đô hộ của Đại Liêu, Đại Kim, dân số chỉ có chết mà chỉ giữ ở khoảng khiêm nhượng này. Đến 90 năm đô hộ của Mông Cổ, thì tàn sát giết chết hơn nửa, bây giờ dân Háng chỉ còn có 46 triệu dân mà thôi ! Quân lính Mông Cổ tuỳ tiện muốn giết dân Háng lúc nào cũng được, kể như cơm bữa, nếu là họ Triệu, họ Trương, họ Lý... thì muốn giết cứ giết không cần tra vấn tội vạ gì cả, nhà quan binh rất rộng rãi, tuy nhiên muốn chiếm nhà đất của dân Háng thì cũng rất là giản đơn giản kép, bằng cách chỉ cần bắn một mũi tên lửa sang nhà láng giềng, nhà láng giềng bốc cháy, bà con dân chúng phải hiểu là di tản chiến thuật ngay tức thời..."
"... Để tỏ ra quân Mông Cổ là thứ quân thiện chiến, có một không hai đánh đâu thắng đó, Hốt Tất Liệt lấy oai với người Mông Cổ, với ngươì Háng cũng có, ra lệnh một lúc cho mấy đạo quân tinh nhuệ, đạo thì xâm lăng Đài Loan, đạo thì uýnh Nhật bản, đạo thì đánh Cao Ly [Triều Tiên], đạo thì qua dậy cho An Nam một hai bài học, đạo thì đánh Chiêm Thành, cũng may là đạo quân nào cũng thua cả! Có một vấn đề thắc mắc nêu ra ở đây, các nước nhỏ này, đều đánh bại toàn quân Thát Đát Hồ Lỗ mà sao quan binh Trung Nguyên cuả người Háng Tộc lại thua dài dài ? ..."
Nhìn lên bảng đồ thế giới thì nước Ta ở dưới nước Tàu, và ông bà ta ngày xưa đều học chữ HÁN và đều chịu ảnh hưởng của văn hóa HÁN TỘC; Ngay cả hiện nay tuy chữ Quốc Ngữ đã thông dụng rồi, nhưng vẫn còn cần phải sử dụng rất nhiều từ HÁN VIỆT, Ta lại có Bô môn HÁN NÔM, Từ điển HÁN NÔM, Viện HÁN NÔM... Nếu tất cả chữ HÁN nêu trên đều viết là HÁNG thì Chu Vương Miện nghĩ sao ?!
Trong sách "Minh Tâm Bửu Giám" của ta có câu : "Hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khẩu 含血噴人,先污自口". Có nghĩa: "Ngậm máu phun người thì dơ miệng mình trước". Mong rằng nhà văn, nhà thơ Chu Vương Miện viết lách, làm thơ... cũng nên giữ phong cách đạo đức của người cầm bút để khỏi thẹn với tiền nhân! Mạt sát một người là đã không nên rồi, huống hồ lại mạt sát cả một dân tộc!
Trung ngôn tự nhiên nghịch nhĩ, lời thật dễ mất lòng, mong bạn tam tư châm chước!
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
Ba vị đại hiệp là giáo chủ Trương Vô Kỵ, tả sứ Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu nhắm ngay Vạn An Tự xuất phát, ngôi chùa này ở trước một khu rừng nhỏ, gồm có một dẫy nhà cao bốn tầng, phía sau có một bảo tháp cao 13 tầng, so với diện tích chùa Thiếu Lâm ở Hà Nam thì cũng không nhỏ hơn, và cũng là một thắng tích nổi tiếng cuả đại đô thời đó, vì quá rộng nên ba người cứ men theo gốc cây đại thụ mà tiến vào, không gặp một trở ngại nào cả, cứ thấy quân tuần tiễu đi tới thì nhẩy lên nóc nhà để tránh. Thấy mọi căn phòng trong trang viện đều không có đèn, duy nhất ở tầng thứ sáu trên bảo tháp sáng mà thôi.
Ba vị dùng khinh công nhẩy đến nơi, giáo chủ Trương Vô Kỵ thì nằm ngửa dưới đất hé cửa nhìn vào trong. Khe cửa quá hẹp phải lấy tay nhích ra thêm chút nữa mới nhìn rõ vào trong được, chỉ thấy trên cái đôn gốm hạng quí có thò ra hai chân một thiếu nữ, đều mang hài xanh, trên mũi hài đều đính một viên dạ minh châu chiếu sáng, còn phía trên thì không thấy, sau lưng thì hình như có hai bóng người đứng hầu bảo vệ, phía trước thì có một cái ghế gỗ, kẻ ngồi trên đó là chưởng môn phái Côn Luân Hà Thái Xung. Chỉ nghe tiếng nói cuả cô nương giọng trong trẻo nhưng đầy uy lực:
- Bổn cô nương là người Bắc địch, giòng dõi tổ tiên là Thành Cát Tư Hãn xứ Mông Cổ, kiến thức văn hoá không có, nhân tiện đây xin được tiên sinh giảng giải cho biết chút đỉnh về những phái võ trong Võ Lâm Trung Nguyên. Hay thôi để đỡ làm phiền tiên sinh, xin tiên sinh chỉ nói về phái Côn Luân Tây Vực của mình cũng tạm đủ.
Chưởng môn phái Côn Luân là Hà Thái Xung vẫn ngồi trên ghế lên tiếng nói đều đều:
- Thưa quận chuá nương nương, vào cuối thời nhà Tống đầu đời nhà Nguyên thì có ba phái Võ ra đời cùng một lượt, là phái Võ Đang của Trương Chân Nhân trụ ở dẫy Núi Tam Phong, quận Tương Dương tỉnh Hồ Bắc. Một phái ở núi Nga My tỉnh Tứ Xuyên do tổ sư Quách Tương thứ nữ cuả hai đại nữ hiệp Quách Tĩnh Hoàng Dung thành lập. Phái thứ ba tại Tây Vực trong dẫy Côn Luân này, Tổ sư là Côn Luân Tam Thánh Hà Túc Đạo sáng lập ra. Vị này có hai người con trai, người con cả tên là Hà Túc Tắc, người con thứ là Hà Túc Đức. Vì hiếu kỳ bởi lời nói cuả Quách Tương nữ hiệp nên Hà tiên sinh cho phép người con cả qua bên Việt Nam học nghệ. Lúc bấy giờ thì ở xứ Việt Nam có hai nhân tài, nhưng vì xứ này có tới 7.000 năm văn hiến, mà Trung Quốc chỉ có 4.000 năm mà thôi! Nên chuyện thiên tài hay vô tài hoặc có tài cũng không có ai quan tâm hâm mộ, vị trưởng tử Hà Túc Tắc qua tới nơi thì mới đầu học nghệ với một vị nữ lưu, vị này được mệnh danh là “Nhị Tuyệt” có tài vừa đánh răng vừa thổi sáo, có nghiã là hai hàm răng cuả vị Tuyệt này bị gẫy cả, mà phải làm hai hàm răng giả. Buổi tối trước khi đi ngủ thì tháo hai hàm răng giả này ra ngậm vào trong cốc nước, sáng dậy thì mang hai hàm răng giả ra lấy chân đè lên, dùng bàn chải đánh răng chà thuốc vào rồi chà lên hai hàm răng, còn miệng ở không thì huýt sáo bản nhạc “Giòng sông Xanh” hay “Cầu sông Quai”. Sau một thời gian theo học, nhưng thấy có một trở ngại là sau khi thành tài, lại phải tới nhà trồng răng thuê thợ nhổ hết cả hai hàm răng, sau này chỉ ăn cháo thì phiền phức và tốm kém quá, nên đành thôi. Sau này thì gặp được vị Tam Tuyệt, vị này cũng là một nhân tài thời đó, theo một vị đại quan qua Pháp du học về ngành thổi kèn “Bú Dích”. Qua một thời gian sáu năm thì vị này tốt nghiệp thành tài, về nước vừa là nhạc trưởng nhạc cung đình, ban đêm lại là nhạc trưởng “nhạc phòng trà”. Vị này có một người anh cũng là thiên tài, có danh là Huỳnh Hoa. Huỳnh Hoa có khả năng thổi một lúc hai kèn, hoặc có thể thổi vừa kèn vưà sáo, miệng thổi kèn mũi thổi sáo [harmonica], vừa thổi hai thứ, miệng còn ăn chuối hoặc uống nước trà. Sau một thơì gian thì Hà Túc Tắc thành công, về lại Tây Vực nhưng chỉ muốn hành nghề âm nhạc nghệ thuật mà thôi, nên ngành võ chưởng môn đựợc chuyển qua cho người em ruột là Hà Túc Đức [vị này là nội tổ cuả tại hạ]. Sau đó vị này truyền cho thân phụ cuả tại hạ là Hà Thái Tố, ông nội và phụ thân tại hạ bình bình không có gì xuất sắc cho lắm, nhưng đến khi truyền cho tại hạ thì danh tiếng phái Côn Luân lên như diều.
- Gặp cơ may à ?
- Không phải vậy, chả là tên của tại hạ là Hà Thái Xung, lúc thanh niên thì Xung lắm, cổ nhân Chung Hoa có nói “Nhất nhật bất cấu tinh keo như kẹo”, nên phải cưới một lúc năm cô vợ mới đã, tuy nhiên tối ngày cứ cấu với bẹo, không bao lâu thành liệt, sau nhờ uống thuốc “Tam Tinh hải cẩu bổ thận hoàn” của nhà thuốc Võ Văn Vân sản xuất ở Sài gòn, nên mọi việc rất là thuận chiều mát mái, từ đó thiên hạ gọi tại hạ là Côn Luân Tam Tinh.
- Xin có lời chúc lành cho chưởng môn! Một lúc mà là Tam Tinh chắc là Bắc Đẩu, Nam Tào và Quả Tạ ?
- Dạ không dám, Tam Tinh đây là “Tam Tinh hải cẩu”.
- Vậy họ Hà [trong Ngũ Độc Giáo] ở Vân Nam phò trợ cho Lương Vương thứ hoàng tử cuả vua Thuận Đế nhà đại Nguyên thì quan hệ họ hàng thế nào? Ra sao?
- Thực ra thì họ hàng như thế nào tại hạ không được rõ, và cũng không có ai truyền lại một điều gì? Chỉ biết được một điều là các vị Hà Thủ Ô, Hà Thiết Túc sau này đến Hà Thiết Thủ vị nào đảm nhiệm làm giáo chủ Ngũ Độc Giáo Vũ Lăng, tỉnh Vân Nam thì đều tự chặt cụt cánh tay trái cuả mình giống y như Thần Điêu đại hiệp Dương Quá vậy?
Quận chuá nương nương nói nhỏ gì vớí một vị đứng đằng sau mình:
- Hãy mang tất cả các vị nam nữ hiệp trong phái Côn Luân thả tự do cho họ.
*
Quận chúa nói với vi đại hiệp mặc áo vàng đứng bên:
-Cho mời Chưởng môn nhân Đường Văn Lượng phái Không Động.
Một vị lão đại hiệp được đưa vào và được mời an toạ, thì quận chuá nương nương nói:
- Xin đại hiệp cứ tự nhiên giới thiệu về Bang Phái cuả mình? có sao nói vậy? Không cần thêm và cũng không cần bớt ?
- Dạ thưa quận chuá nương nương, môn hộ là Không Động, có hai thời kỳ hiểu hơi khác nhau, trước đây khoảng năm mươi năm thì phái Không Động được Võ Lâm Trung Nguyên hiểu làm vầy, chả là trong dẫy núi Tung Sơn tỉnh Hà Nam có sáu ngọn núi, thì đại phái Thiếu Lâm tọa một ngọn gọi là ngọn Thiếu Thất, năm ngọn còn lại goị là Ngũ Nhạc, chia ra làm năm phái, Trung Nhạc là cuả phái Tung Sơn ở vào quãng giữa, Đông Nhạc, Tây Nhạc, Nam Nhạc và Bắc Nhạc thì các phái như Hoa Sơn, Hằng Sơn, Hành Sơn, Thái Sơn chia nhau thống lĩnh. Điều đặc biệt là trên năm quả nuí Ngũ Nhạc này đều có hang động như Tư Quá Nhai... nên các phái có nhà ở và có hang động để núp gió, núp mưa. Riêng phái Không Động đến sau, không có mỏm núi nào để mà thống trị nữa, nên bất đắc dĩ làm nhà trên đất bằng phẳng mà ở mà sinh hoạt võ thuật, sau này thì lại mang ý nghiã như sau, chả là cái bộ tinh yếu võ học cuả bổn môn là “Thất Thương Quyền” thì tất cả có năm phần, nhưng bình thường các môn đệ chỉ được phép học tơí phần thứ ba mà thôi. Còn phần thứ tư thì không chép mà chỉ cho khắc văn tự vào trong cán con dao chuỷ thủ, mà chỉ có chưởng môn mới có quyền cất giữ bảo quản, mà cũng chỉ có chưởng môn nhân cho phép ai học phần thứ tư này thì ngươì đó mới được học. Học xong phần này thì qua phần thứ năm có sẵn với ba phần trước, sau này không biết vì lý do gì thanh dao chuỷ thủ mất tích, mà phần khẩu quyết thứ tư cũng mất theo luôn, thành ra chỉ tập đến phần thứ ba thì thôi, mà tập tiếp phần thứ năm [không có phần thứ tư] thì bị nội thương tẩu hoả nhập ma, thành ra ai cũng bị nội thương cả.
- Tất cả từ trên xuống dưới bản phái đều bị nội thương? Vậy các vị trong phái Không Động đến Đỉnh Quang Minh cuả Minh giáo để làm gì?
- Chả dấu gì quận chuá nương nương, đại sư Không Văn phương trượng chuà Thiếu Lâm thấy Ngũ Đại Môn Phái ít quá, nên đề nghị thêm phái Không Động vào nưã nói là Lục đại môn phái cho nó oai.
- Từ trên xuống dươí toàn phái đã không có ai cục cưạ gì được thì đến đỉnh Quang Minh bằng cách nào?
- Dạ khải bẩm quận chuá là mọi ngườì phái Không Động đều đựợc phái Thiếu Lâm cho lên võng lên cáng cắt cử đệ tử khiêng đi.
- Vậy tổng quản cho tha hết tất cả các đại hiệp nữ hiệp trong phái võ Không Động trở về nguyên quán. Cho mời Diệt Tuyệt sư thái phái Nga My lên có đôi lời thăm hỏi.
*
Hai người mặc áo vàng vào thưa lại vơí quận chuá nương nương là : “vị Diệt Tuyệt sư thái này đã tuyệt thực năm ngày hôm nay rồi, sức khỏe yếu ớt lắm?” Vậy cho mời học trò cưng cuả sư thái tên là Chu Chỉ Nhược lên gặp cũng được, quận chuá noí:
- Cô nương thay mặt sư phụ biểu diễn võ công bổn môn cuả phái Nga My cho bổn cô nương nhàn lãm, chỉ cần muá một lần rồi về chỗ cũ qui an.
Chu Chỉ Nhược khuôn mặt bình thản nói:
- Dù sao đi nưã thì phái võ Nga My không được liệt vào hạng Thái Sơn Bắc Đẩu cuả Võ Lâm Trung Nguyên, tuy nhiên cũng không thuộc vào loại đồ bỏ, đâu có thể mang ra muá may cho bọn Hồ Lỗ dã man bọn Ma nữ ngoại tộc nhòm ngó cho được ?
- Nói không dở , đáng lẽ thì ta chặt một ngón tay cuả cô nương, nhưng cô nương đã có gan nói như vậy thì ta lấy kiếm khứa mấy đường trên mặt, trên má cô nương trông giống như Tây Marốc xem thế nào? Nói xong là làm liền, chỉ thấy hàn quang lấp lánh lóe lên, giáo chủ Trương Vộ Kỵ hoảng quá vội móc trong túi quần ra chiếc hộp Vàng quăng ngay vào , chiếc hộp vàng bị thanh kiếm Ỷ Thiên chặt ra làm đôi, văng vào trong góc phòng, và ba người cùng nhẩy vào một lượt: Trương vô Kỵ, Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu. Mọi người trong sảnh bảo vệ quận chuá cũng sững sờ chả ai nói lời nào. Quận chuá nói:
- Cái hộp vàng có gì để cho giáo chủ Minh Giáo ghét đến như thế?
Trương vô Kỵ vội vàng đáp :
- Quận chuá nương nương nghĩ sai rồi, nếu cái hộp vàng là một vật đáng ghét thì tại sao lúc nào tại hạ đi đâu cũng mang nó theo kè kè bên mình?
Nói rồi lại góc phòng lượm chiếc hộp mang lên quận chúa la lớn: “Đưa ngay cho ta ?”
Giáo chủ bèn hai tay đưa chiếc hộp vàng cho quận chúa, quận chúa cầm lên nhìn thoáng qua mặt rất lấy làm thất vọng hất hàm hỏi:
- Chỉ có bấy nhiêu thôi sao ? Hôm trước bổn cô nương có sai Tiền Nhị Bài trong “ Thần Tiễn Bát Hùng” gửi cho giáo chủ một bức thư, giáo chủ có nhận được bức thư này không?
Trương Vô Kỵ thuận miệng đọc luôn:
- Thân khải Trương giáo chủ: “Hộp vàng hai tầng, linh cao “Hắc Ngọc đọan tục cao” cất bên trong từ lâu. Bông hoa ngọc trong chiếc trâm cài rỗng ruột, đựng bài thuốc giải “Thất Trùng Thất Hoa Độc” ở đó. Hai thứ ấy đã tặng chàng lâu rồi, sao còn phải vất vả tìm kiếm? Hay là thấy vật mọn mà rẻ rúng, đem tặng lại con hầu? Chẳng hoá ra phụ tấm chân tình cuả tiện thiếp lắm ru?”
Quận chuá thẫn thờ hỏi:
- Vậy còn chiếc Trâm cài đầu đâu? Mà chỉ có chiếc hộp Vàng này không thôi?
Qua vài giây suy nghĩ ngắn ngủi giáo chủ Minh Giáo Trương Vô Kỵ trân trọng trả lời:
- Khải bẩm quận chuá kể ra thì cũng hơi dài dòng, chả là xíng xáng Kim Dung [tức Trà Lương Dung tức Louis Cấm Dùng] là một trong 10 vị tài chủ giầu có nứt đó đổ vách nhất Hương Cảng, tiên sinh có nhà in riêng kiêm luôn nhà xuất bản và phát hành sách báo, lại làm chủ một lúc nào là Hồng Kông Minh Báo [nhật báo] rồi Tuần báo rồi Nguyệt báo, lại kiêm nhiệm luôn cả hãng phim Minh Thị, công việc đa đoan bề bộn như vậy nên cái chuyện Kiếm Hiệp Kỳ Tình “Ỷ Thiên Đồ Long Ký” tiên sinh chỉ có thì giờ viết phác hoạ dàn bài, phần còn lại toàn là thuê thợ công nhân nhà văn viết thế vào. Kẻ viết ít thì mươi trang, kẻ nhiều thì vài chục vài trăm trang, viết feiulleton cho báo ngày, Viết xong là hết, có ai ngờ đâu lại ăn khách, lại quay thành phim cinema, rồi lại in ấn thành tác phẩm dầy cộm đồ sộ, bộ nào bộ nấy cũng tròm trèm từ sáu đến tám đến mười tập, thành ra lại mướn người biên tập lại, viết lại, trong đó có đại văn hào Cổ Long, nhân vật cũng thay mà tình tiết cũng thay, tên bộ sách cũng thay luôn, ai đọc bộ cũ rồi thì lại phải mua bộ mới đọc lại, còn không thì chả hiểu ất giáp gì cả, Còn tám bộ phim vừa Cô Gái Đồ Long vừa Ỷ Thiên Đồ Long Ký thì bộ nào cũng khác bộ nào. Bộ năm 2006 do nam tài tử Ngô Khải Huê thủ vai Trương vô Kỵ và Tuyết Mễ thủ vai Tiểu Chiêu thì toàn là những người già trên bốn mươi tuổi thủ vai chính, mà bộ năm 2010 thì lại toàn là trẻ con dưới 14 tuổi đóng. Tuy nhiên bộ mới này nhân vật Ân Ly đóng rất tuyệt, cảnh trí rất là tuyệt vời, kẻ viết thuê nhiều quá không biết ai vào với ai? Kẻ sau viết không theo dõi người viết trước đã viết cái gì? Viết tưới hạt sen vào thì cái chuyện “Hộp bằng Vàng” thì ngăn dưới đựng Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao, ngăn trên đựng cây trâm với hai hột ngọc trai, Cao dùng chữa trị cho tam sư bá Dư Đại Nham và lục sư thúc Ân Lê Đình hết rồi. Còn cái trâm hột ngọc, chả lẽ tại hạ dùng để đâm vào cổ cho chết, chả lẽ cái trâm biến đi đâu ? Đây chẳng qua là viết nhăng viết cuội, viết trước quên sau? Những điều tâm can mà tại hạ đã trình bày vơí quận chuá, còn tin hay không hoàn toàn do nơi quận chuá?
chuvươngmiện
Trong lán trại của Minh Giáo an toạ trong khu rừng phía sau của Thiếu Lâm Tự giáo chủ Trương Vô Kỵ ngồi chủ trì đại cuộc, bên cạnh là Triệu Mẫn quận chúa có hai vị Tiêu Dao nhị tiên [tức hai vị sứ giả Dương Tiêu và Phạm Dao], Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu, cùng nhị sư bá Dư Liên Châu phái Võ Đang, cuộc họp nội bộ này dùng tiếng Mông Cổ là chính, để khỏi lọt bí mật ra ngoài tiếng Háng chỉ là phụ. Nói là cuộc họp, nhưng thực ra là một cuộc phân công phân nhiệm cắt đặt hậu sự của giáo chủ Minh Giáo mà thôi, và người [nhân tuyển] được chỉ định chức phận cũng chỉ chấp hành nghiêm chỉnh phục mệnh. Giáo chủ Trương Vô Kỵ phân bổ nói:
- Sự đời đến và đi là một con đường thẳng, cục phân bò hay Kim Mao Sư Vương Ta Tốn thì cũng không khác chi nhau! Bát cơm hay bát cứt giá trị tương đương, bát cơm dùng cho con người, bát cứt dùng cho con chó, đếu là chất bồ dưỡng tương đương, chẳng qua thời gian chuyển hoá trước và sau mà thôi, thì cái chuyện đến và đi nó cũng vậy. Cuộc đơì vốn bất thường vô thường, nay vầy mai khác. Vậy trong lúc còn bình thường thư giãn, bổn giáo chủ xin được phân công phân nhiệm những nhiệm vụ trong bổn giáo vào những ngày sắp tới, kính mong những vị đại hiệp cao cấp hộ giáo một lòng đáp ứng nhiệt tình ủng hộ cho. Nay đề cử tả sứ Dương Tiêu là giáo chủ Minh Giáo đời thứ ba mươi lăm, hữu sứ Phạm Dao là phó giáo chủ, có nhiệm vụ phụ tá cho giáo chủ xử lý công việc hoàng dương bổn giáo. Các vị còn lại mỗi vị thăng lên một cấp. Riêng bổn tọa thì xin được cáo lão hồi hưu, nhiệm vụ đến đây cũng tạm như “đại công cáo thành”.
Nhị sư bá Dư Liên Châu phái Võ Đang lên tiếng:
- Quý thay, sự đời muôn sự cuả chung, chả có cái gì trường cửu, mà chả có cái gì vĩnh viễn, và cũng chả có gì văn thành võ đức, trung hưng thánh giáo nhất thống cùng muôn năm trừng trị giang hồ, có đó mà không đó, ôm rơm lắm thì rát bụng, vác ngà voi thì nặng vai! Khi nào giữ được thì tạm giữ khi nào cần buông ra được thì buông ngay!
Hữu sứ Phạm Dao tiếp lời bằng tiếng Mông Cổ:
- Thuộc hạ có thời kỳ làm đệ nhất dũng sĩ xứ “Hoa Thích Tử Mô” là một phiên thuộc cuả Mông Cổ, phần dã sát biên giới nước La Sát, thì có một nhận xét chủ quan về sự cai trị cuả nhà đại Nguyên như sau “ Mông Cổ không có một chính sách cai trị hoàn thiện gì cả , chỉ có tính cách đi ăn cướp, nên sau bốn mươi năm làm chủ cả một dải đât rộng lớn từ Âu sang Á từ đời Mông Kha đã dần dần bị những thuộc quốc đồng hoá, phiá Đông Âu do Hãn Truật Xích cai quản đã từ từ biến chất cùng dân địa phương biến thành nước Hungary, phiá Bắc vùng Nga La Tư là đất phong cuả Hãn Cáp Nhĩ Đài thì bị đồng hoá thành bốn nước Uzberkistan, Turkistan, và Tazhikistan, cùng Hoa Thích Tử Mô. Phần còn lại là nhà Đại Tống thì do một phần Mông Cổ gọi là Nguyên cai trị, hầu như đa số người Mông Cổ đã bị Háng đồng hóa hết trọi. Hiện giờ trong tình cảnh này, không cần dân Háng vùng dậy đòi tự trị thì quân Mông Cổ từ từ cũng sẽ tan!”
Tả sứ Dương Tiêu kính cẩn tiếp lời:
- Theo ngu ý cuả tại hạ thì các quốc gia có khả năng đi xâm lăng [thực dân] những nước khác, hoặc chiếm đóng hoặc đô hộ, hoặc mang chiêu bài mị dân là đi cai trị khai hoá v..v.. thường họ có một quân đội hùng mạnh, một hạm đội hiện đại hơn, một nền văn minh và văn hoá cao hơn dân bị chiếm, chả hạn như Hy Lạp, La Mã, Ai Cập... họ chiếm đóng mục đích là chiếm nguyên vật liệu [tức tài nguyên] như than đá, dầu hoả, quặng kim loại, uranium, họ cũng làm những con đường quốc lộ rộng rãi, những hải cảng sầm uất, những thành phố kinh tế phồn vinh, những cơ sở sản xuất khang trang, nhà thương trường học bưu điện, mặc dù chỉ là những phương tiện để di chuyển [mang nguyên liệu] ra đi, tuy nhiên dân bản xứ ngươì thì đi lính đánh thuê, người làm phu làm phen làm thợ, ngươì làm công nhân, đàn bà con gái thì lấy họ, không thì cũng làm chị em ta... nói chung thì hai bên cũng đều lưỡng lơị, hai bên đều có lơị, nhất là họ có một nền văn hoá cao, truyền bá tư tưởng tự do, dân chủ, mặc dù họ đến để xâm lăng bóc lột nhưng bản chất họ là ngươì có văn hoá , nên dù dã man, khốn nạn đến đâu đi nưã cũng chỉ có chừng có mực có giớí hạn. Ngược lại dân Mông Cổ là dân du mục không có văn hoá, không có chữ viết, đi đến đâu là tàn hại tới đó. Sự xâm lăng cuả Mông Cổ với các nước láng giềng là một sự đại tai họa cho nhân loại con người. Không biết đối với đại Ngalatư, Đông Bắc Âu ra sao thì không được rõ, chứ riêng với Trung Thổ thì đúng là tầng chót điạ ngục trần gian, có một mà không bao giờ có hai. Dân số từ đầu nhà Tống dân hai miền Nam Bắc tính chung là 100 triệu dân, qua 300 năm đô hộ của Đại Liêu, Đại Kim, dân số chỉ có chết mà chỉ giữ ở khoảng khiêm nhượng này. Đến 90 năm đô hộ của Mông Cổ, thì tàn sát giết chết hơn nửa, bây giờ dân Háng chỉ còn có 46 triệu dân mà thôi ! Quân lính Mông Cổ tuỳ tiện muốn giết dân Háng lúc nào cũng được, kể như cơm bữa, nếu là họ Triệu, họ Trương, họ Lý... thì muốn giết cứ giết không cần tra vấn tội vạ gì cả, nhà quan binh rất rộng rãi, tuy nhiên muốn chiếm nhà đất của dân Háng thì cũng rất là giản đơn giản kép, bằng cách chỉ cần bắn một mũi tên lửa sang nhà láng giềng, nhà láng giềng bốc cháy, bà con dân chúng phải hiểu là di tản chiến thuật ngay tức thời thì sống, nấn ná ở lại bám trụ là kể như toi đời, chiếm cứ nhà dân, gỡ gỗ ra làm củi chụm thui dê thui cưù, các cây nhãn, cây lê, cây bưởi, cây hồng có tuổi sống hàng 10 năm trở lên, không biết hái trái để ăn, chờ sang năm thu hoạch mùa khác, người Mông Cổ cho cưa hẳn các loại cây ăn trái tận gốc kéo thân cây vào để trong nhà, ăn dần ăn hết thì mang thân cây ra sân cưa bổ thành củi nhóm lửa nấu cơm. 90 năm cai trị Trung Nguyên không mở mang khuyếch trương gì cả, đường xá chỉ là những lối mòn xưa cũ dùng cho lừa ngựa và xe ngưạ chạy, lòng cũng không tham, cũng chả biết giá trị cuả vàng bạc đá quí, cũng không tham vải vóc gấm lụạ, cũng không tham gái có nghiã là hoàn toàn không tham nhũng, đời sống thường nhật cứ quàng đại một tấm da dê da cừu lên thân người là kể như xong. Tuy nhiên nghe nói thời nhà Tây Hán có cho ngườì sang Đại Việt cai trị, nơi này chuyên sản xuất Sừng Tê [Giác], Ngà Voi, thu gom đặc sản này về kinh đô nhiều lắm. Thời đó không biết dùng Sừng Tê Ngà Voi để tế ông tế cha gì không rõ, còn thời Hốt Tất Liệt cho quân xâm lăng Đại Việt, mục đích phụ là càn quét lấy cho bằng hết Sừng Tê Ngà Voi về Đại Đô, để cúng hương hồn Thành Cát Tư Hãn, sau nữa chia cho các Bạt Đô [Dũng Sĩ] gắn Sừng Tê vào mũ đội trên đầu để thỉnh thoảng vào ngày lễ đấu bò thì đội vào để mà húc nhau ? Còn Ngà Voi thì để dành ai ở không thì vác tới vác lui cho nó vui ?
*
Để tiếp lời tân giáo chủ Minh Giáo Dương Tiêu đời thứ ba mươi lăm, Du Liên Châu nhị hiệp phái Võ Đang khẩn trương nói:
- Để tỏ ra quân Mông Cổ là thứ quân thiện chiến, có một không hai đánh đâu thắng đó, Hốt Tất Liệt lấy oai với người Mông Cổ, với ngươì Háng cũng có, ra lệnh một lúc cho mấy đạo quân tinh nhuệ, đạo thì xâm lăng Đài Loan, đạo thì uýnh Nhật bản, đạo thì đánh Cao Ly [Triều Tiên], đạo thì qua dậy cho An Nam một hai bài học, đạo thì đánh Chiêm Thành, cũng may là đạo quân nào cũng thua cả! Có một vấn đề thắc mắc nêu ra ở đây, các nước nhỏ này, đều đánh bại toàn quân Thát Đát Hồ Lỗ mà sao quan binh Trung Nguyên cuả người Háng Tộc lại thua dài dài ? Đó chẳng qua chỉ là chiến thuật chiến lược “biển người” thực hành câu chân ngôn “quân tử mười năm trả thù chưa muộn” ? Phải biết trường kỳ mai phục nhắm chờ thời cơ chín muồi để đồng hoá thằng du mục Di Địch Mông Cổ, Mông Đít phương bắc này từ A tới Z, có nghĩa là dứt đẹp con “Vịt Đẹt” từ bây giờ trở đi, bố bảo cho ăn kẹo cũng không dám xâm lăng Trung Quốc nữa.
chuvươngmiện