Trời sắp vào cuối thu , nằm đọc mấy bài mùa thu của cụ Nguyễn Du mà cảm thấy nao nao lòng , phải chăng lớp già chúng ta đang ngậm ngùi khắc khoải cho tuổi già bóng xế , man mác nhớ về quê hương ? Mời bạn chia sẻ .
Hương Giang nhất phiến nguyệt
*Bài thơ nầy là một trong 39 bài trong Nam Trung Tạp Ngâm thời kỳ Ông làm quan ở Quảng Bình và Huế (1804-1814 ) Năm 1804, Nguyễn Du cáo bệnh, xin về hưu, từ quan, nhưng chỉ được có hơn một tháng thì có chỉ vua triệu vào cung giữ chức Đông các điện học sĩ, nên đành phải đi. Bài "Phượng Hoàng lộ thượng tảo hành" làm lúc lên đường trẩy kinh (tháng giêng năm Ất Sửu, 1805).
Sông Hương một mảnh nguyệt
Xưa nay gợi không biết bao nhiêu mối sầu
Chuyện cũ chạnh thương mồ cỏ xanh
Thu mới tới trên đầu tóc bạc
Có hình nên phải chịu vất vả
Không bệnh mà lưng vẫn khom khom
Ngoảnh đầu trông về bến sông Lam
Lòng nhàn xin tạ từ chim âu trắng
Dòng sông Hương một vầng trăng sáng ,
Từ cổ kim lai láng tơ sầu .
Mộ xanh chuyện cũ rầu rầu ,
Ngập ngừng thu tới mái đầu hoa râm .
Mang hình hài xót thân vất vã ,
Chưa bệnh hoạn lưng đã khòm rồi ,
Bến Lam mặt ngoảnh trông vời ,
Hải âu từ tạ chơi vơi trong lòng .
Tứ thì hảo cảnh vô đa nhật,
Phao trịch như thoa hoán bất hối.
Thiên lý xích thân vi khách cửu,
Nhất đình hoàng diệp tống thu lai.
Liêm thuỳ tiểu các tây phong động,
Tuyết ám cùng thôn hiểu giốc ai.
Trù trướng lưu quang thôi bạch phát,
Nhất sinh u tứ vị tằng khai.
*Bài thơ nầy nằm trong Thanh Hiên Thi Tập trong phần Mười Năm Gió Bụi
Thanh Hiên thi Tập gồm 78 bài có thể chia làm 3 phần :
A- Mười Năm Gió Bụi (1786-1795) thời gian lẫn trốn ở Quỳnh Côi
B- Dưới Chân Núi Hồng (1796-1802) , về ẩn ở quê nhà .
C- Làm quan ở Bắc Hà (1802-1804
Trong bốn mùa, không được mấy ngày cảnh đẹp.
Thời gian vun vút trôi qua như thoi đưa, gọi không trở lại.
Trơ trọi một mình ngoài ngàn dặm, nơi đất khách đã lâu ngày,
Giờ đây một sân đầy lá vàng thu đưa đến.
Ngọn gió tây lay động bức mành trước gác nhỏ,
Nơi thôn xóm, sương xuống mịt mù, tiếng tù và buổi sớm nghe đến não nùng!
Thời gian thấm thoắt làm cho mái tóc chóng bạc.
Nghĩ mà ngậm ngùi, suốt đời ta chưa hề gỡ được mối u sầu.
Cảnh bốn mùa đẹp tươi được mấy ,
Thoi thời gian gọi mãi không quay .
Dặm ngàn cô khách năm dài ,
Thu về xào xạc sân đầy vàng bay .
Gió tây thổi rèm lay gác nhỏ ,
Còi sớm buồn tuyết đổ đầy thôn .
Tóc sương ngày tháng bồn chồn ,
Cả đời u uẩn ngập hồn không vơi .
Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây :
1. NGUYÊN BẢN CHỮ HÁN CỦA BÀI THƠ :
香江一片月, Hương Giang nhất phiến nguyệt,
今古許多愁。 Kim cổ hứa đa sầu.
往事悲青塚, Vãng sự bi thanh trủng,
新秋到白頭。 Tân thu đáo bạch đầu.
有形徒役役, Hữu hình đồ dịch dịch,
無病故拘拘。 Vô bệnh cố câu câu.
回首藍江浦, Hồi thủ Lam Giang phố,
閒心謝白鷗。 Nhàn tâm tạ bạch âu !
HƯƠNG GIANG : Con sông chảy giữa kinh thành Huế, một thắng cảnh của tỉnh Thừa Thiên. Năm Ất Sửu (1805), Nguyễn Du được thăng hàm Đông Các Điện Học Sĩ, tước Du Đức Hầu và làm việc tại Kinh đô Huế. Nhưng lòng vẫn đeo nặng mối sầu thiên cổ.
HỨA ĐA : là Biết bao nhiêu, chỉ Rất nhiều.
THANH TRỦNG : Trủng là gò đất cao. Thanh Trủng là gò đất xanh vì cỏ mọc, thường dùng để ví với các nấm mồ.
DỊCH DỊCH : Chỉ sự làm việc vất vả như ở trong quân lữ.
CỐ : là Vì, là Cho Nên ( Chỉ lý do ).
CÂU CÂU : Chỉ lom khom như gù lưng. Làm quan luôn luôn phải giữ vẻ khúm núm như là kẻ mắc bệnh gù lưng. Vẻ khúm núm của giới quan trường.
PHỐ 浦 : Có 3 chấm thuỷ bên trái, nên Phố là Bến nước.
BẠCH ÂU : là Những con hải âu màu trắng.
Một mảnh trăng trên dòng Hương Giang đã khơi dậy biết bao là nỗi sầu kim cổ. Chuyện đã qua thì bi thảm như những nấm mộ xanh rì, thu mới đến thì lại làm cho bạc trắng cả mái đầu. Vì mang thân xác của con người nên luôn luôn phải làm việc cật lực vất vả. Và vì không có bệnh nên lại phải tiếp tục khúm núm trong quan trường. ( Nếu ngọa bệnh thì khỏi làm việc và khỏi phải khúm núm trước quan trên ). Quay đầu nhìn lại bến Lam Giang, ta muốn cám ơn những con chim hải âu trắng xóa đang bay lượn trên bến sông đã giúp cho lòng ta cảm thấy thanh nhàn hơn !
Hương Giang trăng một mảnh,
Lam Giang trông bến nước,
Hương Giang một mảnh trăng treo,
Cổ kim khơi động lòng sầu bao thu.
Chuyện qua buồn tựa cổ khâu,
Bâng khuâng thu đến bạc đầu không hay.
Mang thân nên vất vả hoài,
Quan trường khúm núm vì ai ngỡ ngàng.
Quay đầu nhìn bến Lam Giang,
Cám ơn âu trắng gợi nhàn bên sông !
四時好景無多日, Tứ thì hảo cảnh vô đa nhật,
拋擲如梭喚不回。 Pao trịch như thoa hoán bất hồi.
千里赤身為客久, Thên lý xích thân vi khách cửu,
一庭黃葉送秋來。 Nhất đình hoàng diệp tống thu lai.
簾垂小閣西風動, Liêm thuỳ tiểu các tây phong động,
霜暗窮村曉角哀。 Sương ám cùng thôn hiểu giốc ai.
惆悵流光催白髮, Trù trướng lưu quang thôi bạch phát,
一生幽思未曾開。 Nhất sinh u tứ vị tằng khai.
Trong bốn mùa, không có được mấy ngày là cảnh đẹp.
Thời gian vun vút trôi qua như thoi đưa, gọi cũng không trở lại.
Trơ trọi một thân mình ở xa ngoài ngàn dặm, nơi đất khách đã lâu ngày,
Mùa thu đưa đến với một sân đầy ắp lá vàng.
Ngọn gió tây lay động bức mành mành trước căn gác nhỏ,
Sương xuống mịt mù nơi thôn nghèo, tiếng tù và buổi sớm nghe đến não nùng!
Thời gian lần lựa làm cho mái tóc mau bạc trắng hơn.
Suốt đời ưu tư sầu muộn, chưa một lần giải tỏa được mối lo âu nầy.
Bốn mùa cảnh đẹp được bao ngày ?
Vun vút thoi đưa tựa lá bay.
Ngàn dặm chiếc thân cô khách nhớ,
Một sân đầy lá tiếng thu dài.
Buông rèm gác nhỏ tây phong thổi,
Sương phủ xóm nghèo tiếng sáo ai.
Lần lựa tháng ngày thêm tóc bạc,
Một đời lo nghĩ mãi u hoài !
Bao ngày cảnh đẹp bốn mùa ?
Thời gian vùn vụt thoi đưa chẳng về.
Chiếc thân ngàn dặm não nề,
Đầy sân lá rụng tư bề gió thu.
Thổi tung gác nhỏ rèm châu,
Xóm nghèo sương phủ thêm sầu sáo ai.
Sương pha tóc trắng tháng ngày,
Một đời lo lắng u hoài nào vơi !