Sau cái tang thương biến đổi của bài " Sơn Phòng Xuân Sự ", ta hãy xem thêm những cái vật đổi sao dời của 2 bài " Huyền Đô Quán đào hoa " và " Tái Du Huyền Đô " của thi hào Lưu Vũ Tích sau đây ...
玄都觀桃花 劉禹錫
Huyền Đô Quán Đào Hoa Lưu Vũ Tích.
紫陌紅塵拂面來, Tử mạch hồng trần phất diện lai,
無人不道看花回。 Vô nhân bất đạo khán hoa hồi.
玄都觀裡桃千樹, Huyền Đô Quán lý đào thiên thọ,
盡是劉郎去後栽。 Tận thị Lưu Lang khứ hậu tài.
注釋】 CHÚ THÍCH :
① 玄都觀:觀,音ㄍㄨㄢˋ,道院。玄都觀在長安。
Huyền Đô Quán : là Đạo Viện ở Trường An, nơi các đạo sĩ tu tiên.
② 紫陌:京師的道路。
Tử mạch : Đường ở Kinh Thành.
③ 紅塵:路上揚起的灰塵略帶紅色,故稱紅塵。
Hồng Trần : Bụi bên đường bốc lên hơi gợn đỏ, nên gọi là Hồng trần. Ở trên Trời nhìn xuống cũng thấy toàn bụi đỏ bốc lên, nên Hồng Trần còn có nghĩa là Cõi Dưới Thế Gian nầy.
④ 道:說。
Đạo : Động Từ : Có nghĩa là Nói.
⑤ 劉郎:即劉晨。傳說他和阮肇上天台山採藥,遇一仙女,結為夫妻。此處劉禹錫用以影射遭貶官的自己。
Lưu Lang : là Chàng Lưu, tức Lưu Thần, theo truyền thuyết cùng với Nguyễn Triệu lên Thiên Thai hái thuốc, gặp Tiên nữ, kết làm vợ chồng. Ở đây Lưu Vũ Tích dùng để ví mình vì cùng họ Lưu khi bị biếm quan.
Nghĩa Bài Thơ :
HOA ĐÀO Ở HUYỀN ĐÔ QUÁN.
京城的大街上無數行人揚起的塵埃迎面撲來,個個都說是看花歸來。玄都觀種了千株桃樹,滿城的人都去觀賞,而這些桃樹全都是劉郎離開後栽種的。
Rất nhiều người đi đường trong bụi hồng mù mịt của đường phố trên kinh thành, ai cũng bảo là đi xem hoa về cả . Cả thành đều đi ngắm cả ngàn cây hoa đào trong Huyền Đô Quán, tất cả những cây hoa đào này đều được trồng khi Chàng Lưu đã rời đi.
劉禹錫(772 ~ 842),字夢得,唐彭城人,生於唐代宗大歷七年,卒於武宗會昌二年,年七十一歲。貞元九年進士,後為監察御史。因與柳宗元參加以王叔文為首的政治革新運動失敗,被貶為朗州司馬。晚年時,曾為太子賓客,故亦稱為「劉賓客」。
Lưu Vũ Tích ( 772- 842 ), tự Mộng Đắc, người đất Bành Thành đời Đường, sanh vào năm Đại Lịch thứ 7 của vua Đường Đại Tông. Mất vào năm Hội Xương thứ 2 của vua Đường Võ Tông, thọ 71 tuổi. Đậu Tiến Sĩ năm Trinh Nguyên thứ 9, sau làm Giám Sát Ngự Sử. Vì cùng với Liễu Tông Nguyên tham gia vận động đổi mới chính trị do Vương Thúc Văn cầm đầu thất bại, bị biếm làm Lãng Châu Tư Mã. Về già, từng giữ chức Thái Tử Tân Khách, cho nên còn xưng là " Lưu Tân Khách ".
劉氏擅長詩文,當時與白居易為好友,詩名相若,推為「詩豪」。著有《天論》、《劉夢得文集》。
Ông sở trường về thơ văn, là bạn thân của Bạch Cư Dị lúc đương thời, tên tuổi trên thi đàn cũng ngang nhau, đều được xưng tụng là " Thi Hào ". Tác phẩm gồm có tập " Thiên Luận ", " Lưu Mộng Đắc Văn Tập ".
【簡析】
PHÂN TÍCH GIẢN LƯƠC XUẤT XỨ của BÀI THƠ.
劉禹錫因為政爭的關係,貞元二十一年任屯田員外郎時,從京師長安被貶到外地為官,一去十年,至元和十一年始自朗州召還。回到長安以後,感慨自己離開京師太 久,人事變遷,甚覺陌生,所以寫了這首詩。藉由人樹相比,感慨自己年華的逝去。(作者把玄都觀裡的千棵桃樹比作朝廷中的新貴,而這些新貴全是靠阿諛奉承, 趨炎附勢爬上去的政治暴發戶,作者對他們表示了極端的鄙視。)
Lưu Vũ Tích vì việc tranh chấp chính trị, nên năm Trinh Nguyên thứ 21 khi đang giữ chức Đồn Điền Viên Ngoại Lang, bị biếm từ kinh sư Trường An đi làm quan ở xứ ngoài, mười năm sau, năm Nguyên Hòa thứ 11 mới được triệu về từ Lãng Châu. Khi về đến Tràng An, cảm khái vì mình rời kinh sư quá lâu, nhân sự thay đổi, cảm thấy ngỡ ngàng, cho nên làm bài thơ nầy. Mượn cớ so sánh người và cây đào, để cảm khái cho tuổi xuân đã sớm mất đi.( Tác giả đã mượn ngàn cây đào trong Huyền Đô Quán để so sánh với nhóm quý tộc mới trong triều, mới vươn lên nhờ vào sự a dua nịnh bợ, những người dựa vào xu hướng chính trị mà phát tích. Ông đã tỏ ra vô cùng khinh bỉ đối với nhóm người nầy ).
Diễn Nôm :
Gió bụi kinh thành tỉnh giấc mê,
Ai ai cũng bảo ngắm hoa về.
Huyền Đô Quán ấy đào ngàn gốc,
Trồng lúc chàng Lưu trở lại quê.
Lục bát :
Bụi hồng mát mặt tỉnh mê,
Người người đều ngắm hoa về kháo nhau,
Huyền Đô Quán , ngót nghìn đào,
Đều trồng từ thuở chàng Lưu quay về.
***********************
TÁI DU HUYỀN ĐÔ QUÁN
诗人因写了看花诗讽刺权贵,再度被贬,一直过了十四年,才又被召回长安任职。在这十四年中,皇帝由宪宗、穆宗、敬宗而文宗,换了四个,人事变迁很大,但政治斗争仍在继续。作者写这首诗,是有意重提旧事,向打击他的权贵挑战,表示决不因为屡遭报复就屈服妥协。
Sau khi về kinh làm bài " Huyền Đô Quán đào hoa " để châm biếm các nhóm quyền quý mới đương thời, Lưu Vũ Tích lại bị đày lần nữa đến 14 năm sau mới lại được triệu hồi kinh đô nhậm chức, trong thời gian nầy triều đình đã thay đổi đến 4 đời vua, từ Hiến Tông đến MụcTông, Kính Tông, rồi Văn Tông, nhân sự thay đổi rất lớn, nhưng đấu đá về chính trị vẫn còn tiếp diễn. Tác giả làm bài thơ nầy là có ý muốn nhắc lại chuyện xưa, và muốn khiêu chiến với nhóm quyền quý đã đả kích ông ta trước đây, chứng tỏ cho họ biết mặc dù qua nhiều lần bị báo phục, nhưng vẫn không bao giờ chịu khuất phục thỏa hiệp... Ta hãy đọc bài " Tái Du Huyền Đô Quán " dưới đây sẽ rõ...
再 游 玄 都 觀 TÁI DU HUYỀN ĐÔ QUÁN
百畝庭中半是苔, Bách mẫu đình trung bán thị đài,
桃花淨盡菜花開。 Đào hoa tịnh tận thái hoa khai.
種桃道士歸何處, Chủng đào đạo sĩ quy hà xứ ?
前度劉郎今又來。 Tiền độ Lưu Lang kim
作品注釋 Chú Thích Tác Phẩm :
①公元815年(元和十年)玄都觀賞花詩寫後,劉禹錫又被貶出京,十四年後重被召回,寫下此篇。
Công nguyên 815 ( Năm Nguyên Hòa thứ 10 ), sau khi viết bài Huyền Đô Quán Đào Hoa, Lưu Vũ Tích lại bị biếm khỏi kinh đô, 14 năm sau được triệu hồi và... làm bài thơ nầy.
②百畝庭中:指玄都觀百畝大的觀園。苔:青苔。
Bách Mẫu Đình Trung : Sân vườn của Huyền Đô Quán rộng lớn đến cả trăm mẫu. ĐÀI : là Rêu xanh.
③淨盡:淨,空無所有。 盡:完。
Tịnh tận : Tịnh, là sạch sẽ không còn gì cả. Tận : là Hết.
Tịnh Tận : là Hết sạch.
④種桃道士:暗指當初打擊王叔文、貶斥劉禹錫的權貴們。
Chủng Đào Đạo Sĩ : Ám chỉ bọn quyền quý lúc đầu đã đả kích Vương Thúc Văn và biếm Lưu Vũ Tích.
Nghĩa Bài Thơ :
玄都觀偌大庭院中有一半長滿了青苔,原盛開的桃花已經蕩然無存,只有菜花在開放。先前那些辛勤種桃的道士如今那裡去了呢?前次因看題詩而被貶出長安的我——劉禹錫又回來了啊!
Sân vườn rộng lớn của Huyền Đô Quán một nửa đã phủ đầy rêu xanh. Hoa đào rực rỡ của năm xưa nay đã không còn nữa, chỉ có hoa cải là đang nở thôi. Những đạo sĩ cần mẫn trồng đào trước đây giờ đã đi đâu rồi ?. Chàng Lưu của độ trước ( vì làm thơ nên bị biếm ), bây giờ lại trở về đây !
Diễn Nôm :
Nửa vườn trăm mẫu đầy rêu phủ,
Đào đã tàn phai cải mọc đầy.
Đạo sĩ trồng đào đâu vắng bóng ?
Chàng Lưu ngày trước lại về đây !
Lục bát :
Trăm mẫu nửa phủ rêu xanh,
Đào hoa tàn hết , cải dành nở hoa.
Trồng đào đạo sĩ đâu ta ?
Chàng Lưu ngày cũ lại qua chốn nầy !