Tháng Tư Vĩnh Thái nguyên niên ( 765 ), Nghiêm Võ tạ thế, Đỗ Phủ mất nơi nương tựa. Tháng 5, Mới dắt díu gia quyến xuống thuyền rời khỏi Thành Đô sau 5 năm định cư nơi đất Thục, xuôi về đông, phiêu bạc trên Miên Giang Trường Giang một giải. Khoảng sau Trung Thu năm đó, lại tiếp tục đi xuống Vân An ( Nay là Vân Dương ). Chính trên đường đi nầy, ông sáng tác bài " Lữ Dạ Thư Hoài " ( Viết về những hoài cảm của mình trên bước lữ hành ), để nói lên cái cảm khái của một đời phiêu bạc, có tài nhưng lại chẳng gặp thời !
旅夜書懷 LỮ DẠ THƯ HOÀI
細草微風岸, Tế thảo vi phong ngạn,
危檣獨夜舟。 Nguy tường độc dạ chu.
星垂平野闊, Tinh thùy bình dã khoát,
月湧大江流。 Nguyệt dũng đại giang lưu.
名豈文章著? Danh khởi văn chương trứ ?
官應老病休。 Quan ưng lão bệnh hưu.
飄飄何所似? Phiêu phiêu hà sở tự ?
天地一沙鷗。 Thiên địa nhất sa âu.
杜甫 Đỗ Phủ
Dịch Nghĩa :
HOÀI CẢM ĐÊM LỮ HÀNH.
Gió hiu hiu thổi lên đám cỏ non bên bờ sông, đêm xuống, thuyền đậu bến, ta ngồi dưới cột buồm cao cao nhìn bầu trời đầy sao lấp lánh, nên cảm thấy cánh đồng trước mắt như mênh mông hơn. Bóng trăng dường như từ trong nước chiếu ra lấp lánh theo dòng. Văn chương có phải làm nên được tiếng tăm chăng? Quan trường thì vì bệnh tật mà phải cáo hưu. Một đời phiêu bạc khắp nơi với mục đích gì đây ? Chỉ còn lại cảm giác cô đơn như cánh hải âu cô độc trong trời đất mênh mông mà thôi !
Lấy cột buồm cao cao so sánh với thân lẻ loi cô độc của mình, lấy bầu trời cao với trăng sao để thấy sự nhỏ nhoi của con người, lại lấy cánh đồng mênh mông để giải bày uẩn khúc ở nội tâm. 4 câu đầu là " LỮ DẠ ", lấy cảnh để ngụ tình. 4 câu sau là " THƯ HOÀI ", nói lên cái hoài bảo và cảm xúc của mình, không ngờ là nhờ văn chương mà được nổi tiếng, trong khi chính trường thì vì bệnh tật, già cả mà phải bị từ quan, thương cảm cho tấm thân phải phiêu bạc khắp nơi không nơi nương tựa, lời thơ bi thiết như tiếng thở dài !...
Diễn Nôm :
Vi vút gió đùa cỏ dại,
Cao cao buồm trống cột không.
Sao trời như chùn xuống thấp,
Nước trăng lắp lánh về đông.
Văn chương làm nên danh giá ?
Lão bệnh quan trường hết mong,
Phiêu bạt phương trời ai biết ?
Hải âu, trời biển mênh mông !
Công Nguyên 768 ( Năm Đại Lịch thứ 3 vua Đường Đại Tông ), lúc bấy giờ Đỗ Phủ đã 57 tuổi, đang ở Hồ Bắc. Trước đó, khi ở Quỳ Châu ông rất chú trọng đến Luật thơ và đã làm rất nhiều bài thơ Niêm Luật thật nghiêm cẩn, như 8 bài Thu Hứng....Đồng thời cũng trong thời gian nầy, ông có ý nghĩ muốn bức phá sự trói buộc của Niêm Luật, nên mới muốn thử làm ra một thể thơ mới. Một hôm, ông làm ra một bài thơ Phi Cổ Phi Luật ( không phải Cổ Thi mà cũng không phải Luật Thi ) có tựa là " SẦU " , phía dưới ghi chú là " Cường hí vi Ngô Thể " ( Đùa rằng đây là thơ NGÔ THỂ ). Tiếp đó , ông lại làm thêm 17, 18 bài như thế nữa, và vì thế mà trong Đường Thi lại thêm một thể loại : Thơ NGÔ THỂ.