湘江贈別 TƯƠNG GIANG TẶNG BIỆT
數杯別酒驛亭邊, Sổ bôi biệt tửu dịch đình biên,
君上征鞍我上船。 Quân thướng chinh yên ngã thướng thuyền.
獨倚蓬山愁不語, Độc ỷ Bồng sơn sầu bất ngữ,
一江湘水碧連天。 Nhất giang Tương thủy bích liên thiên !
阮中彥 Nguyễn Trung Ngạn
* Chú thích :
- Tương Giang 湘江 : Còn được gọi là Tương Thủy 湘水, là một trong những con sông nhánh quan trọng của Trường Giang và con sông lớn nhất của tỉnh Hồ Nam.
- Sổ 數 : là Một vài, là Mấy. Nếu là Động từ thì có nghĩa là Đếm; Còn nếu đọc là SỐ thì là Danh từ chỉ các chữ số, con số.
- Dịch Đình 驛亭 : là Cái trạm, cái đình cất ở ven đường hay ven sông để nghỉ chân và để làm nơi đưa tiễn nhau.
- Chinh Yên 征鞍 : là cái yên ngựa, mà cũng để chỉ con ngựa sẽ được cởi đi xa.
- Bồng Sơn 蓬山 : Núi Bồng Lai, chỉ chung nơi tiên ở.
* Nghĩa bài thơ :
TẶNG LÚC CHIA TAY TRÊN SÔNG TƯƠNG
Bên cạnh quán dịch bên đường, ta cùng bạn uống vài chung rượu chia tay. Đoạn bạn lên ngựa để vượt đường xa còn ta thì bước xuống thuyền. Ta một mình đứng tựa thuyền nhìn núi Bồng Lai mà buồn nói chẳng nên lời. Xa xa dòng nước sông Tương xanh biếc như nối liền cả nước trời lại với nhau.
Đọc hai câu chót của bài nầy làm cho ta nhớ đến bài thất ngôn tứ tuyệt "黃鶴樓送孟浩然之廣陵 Hoàng Hạc Lâu Tống Mạnh Hạo Nhiên Chi Quảng Lăng" của Thi Tiên Lý Bạch :
故人西辭黃鶴樓, Cố nhân tây từ Hoàng Hạc Lâu,
煙花三月下陽州。 Yên ba tam nguyệt hạ Dương Châu.
孤帆遠影碧空盡, Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
惟見長江天際流。 Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
Diễn Nôm :
Giả từ Hoàng Hạc phía lầu tây,
Xuân đến Dương Châu rực cỏ cây.
Chỉ thấy cánh buồm côi khuất dạng,
Trường Giang nước chảy lẫn trời mây !
Lý Bạch không nói gì đến tình cảm thắm thiết của mình với "cố nhân", nhưng qua hình ảnh đứng nhìn theo cánh buồm của chiếc thuyền chở bạn đi đến khi mất hút trong bầu trời xanh mà vẫn còn nhìn mãi dòng nước chảy đã đưa bạn đến tận phía chân trời, ta cũng thấy được sự quyến luyến vô vàn của một tình bạn nồng nàn thắm thiết đến cở nào ! Nhà thơ Nguyễn Trung Ngạn của ta cũng vậy, một mình đứng tựa thuyền mà trông dòng sông Tương xa xa mênh mông xanh biếc trời nước liền nhau mà buồn nói chẳng nên lời.
* Diễn Nôm :
TƯƠNG GIANG TẶNG BIỆT
Dịch quán chia tay rượu mấy hồi,
Xuống thuyền lên ngựa tách đôi nơi.
Núi Bồng sầu tựa buồn không nói,
Một dãi sông Tương nước lộn trời.
Lục bát :
Tiễn đưa mấy chén quan hà,
Bạn thì lên ngựa còn ta xuống thuyền.
Bồng Sơn sầu tựa núi tiên,
Sông Tương một dãi nối liền trời mây !
Mời đọc tiếp Thơ NGUYỄN TRUNG NGẠN (phần 4)
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức