2. Bài thơ Hoành Cảnh cầu tre lắc lẻo bắt ngang sông rạch ở Nam Bộ được cụ Phan Thanh Giản miêu tả lại như sau :
野人村塢隔林溪, Dã nhân thôn ổ cách lâm khê,
野徑沙頭略彴低。 Dã kính sa đầu lược chước đê.
幽鳥一聲林際起, U điểu nhất thanh lâm tế khởi,
行人已渡夕陽西。 Hành nhân dĩ độ tịch dương tê (tây).
- Hoành Kiều 橫橋 : Cầu bắt ngang qua sông ngòi kênh rạch.
- Thôn Ổ 村塢 : Xóm nhà ở trên cao xung quanh bao bọc bởi sông nước.
- Chước 彴 : Cầu độc mộc, cầu khỉ.
- U Điểu 幽鳥 : Những con chim trong rừng thâm u vắng lặng.
- Độ 渡 : là Đi ngang qua sông ngòi kênh rạch, thường thì đi bằng đò, còn trong bài là đi ngang qua cầu.
- Tê 西 : là chữ Tây, đọc trại đi cho ăn vận. TỊCH DƯƠNG TÊ 夕陽西 là Nắng chiều ở phía trời tây.
Người sống nơi thôn dã với sông ngòi rừng hoang bao quanh, con đường quê đưa đến bến cát đầu sông làm cho chiếc cầu khỉ như thấp hẵn xuống. Một tiếng chim chiều kêu làm dậy cả rừng vắng thâm u, trong khi người bộ hành cũng đã đi ngang qua sông trong nắng chiều nghiêng chiếu phía trời tây.
Qủa là cảnh thôn quê nên thơ vắng lặng dưới ánh nắng chiều chiếu nghiêng chiếc cầu khỉ bắt qua sông với người bộ hành đang vội vã quay về nhà trước khi trời sụp tối.
Thôn dã sông ngòi bủa tứ giăng,
Đường quê cầu khỉ bắt ngang sông.
Chim kêu rừng vắng người ngơ ngẩn,
Nắng chiếu trời chiều vội bước chân.
Sông ngòi rừng lẫn làng quê,
Đường mòn cầu khỉ nhiêu khê ngại ngùng.
Chim kêu rừng vắng mông lung,
Nắng chiều nghiêng chiếu qua sông bộ hành