Chương 09
Đây là đêm đầu tiên rời làng, anh em Lai ngủ trong quán trọ như những khách du hành khác. Từ khi xảy ra tai nạn do chó rừng, Lai hiểu rằng ngủ đêm ngoài trời rất nguy, dù đỡ tốn tiền. Các khách bộ hành khác nằm sắp lớp dưới đất trong một căn phòng, chật đến ngộp thở, anh em nó quyết định ngủ ở hiên nhà.
Bầy dơi đu trên mái nhà tựa như từng cái túi đen, khi đèn tắt hết chúng nhẹ nhàng rời chỗ đậu đuổi theo côn trùng. Thạch sùng bò đầy đất và trên vách và nhện và bướm đêm bay trong không trung, hướng về gian phòng đọc sách.
Từ hiên nhìn ra, cánh đồng như trải dài vô tận. Thật sung sướng được nằm yên ổn thoải mái được ngắm các vì tinh tú trên trời thay vì hồi hộp lắng nghe từng tiếng động khả nghi trong bóng tối ở bụi tre hay bậc thềm, thấp thỏm ngay cả trong giấc ngủ.
Lai cảm thấy như được tiếp sức, nó tính sau khi đến A-rát lập tức nó tìm ngay ông chú xin ông giúp cho việc đưa Mai vào Y viện. Sau đó nó sẽ kiếm việc làm cho có tiền đặng mua vé tàu về. Lai sẽ làm bất cứ việc gì. Nhất định là không thể trải qua nhiều đêm ngủ tốn tiền như thế này. Và còn tốn tiền ở, tiền đốt lò nấu cơm nữa. Vậy phải mau mau tìm cách đến đích.
Bà Hà tốt bụng cho cho Mai đôi giày, anh em nó cũng được ngủ 3 đêm trong nhà tử tế, nhưng khó mà tìm ra một người tốt bụng như bà cũng như Sâm Du. Phải tự liệu lấy thân. Cần phải đi mau: có thể xin đi nhờ mấy chiếc xe bò đậu ngoài sân. Đừng mơ đến buýt vô ích. Con Cam có thể theo xe bò rất dễ dàng. Lai thiếp đi trong lúc đang suy tính. Tội nghiệp nó, dù rất biết lo lắng cho em, nó vẫn là đứa trẻ 13!
Sáng hôm sau, anh em nó ăn cơm trên bậc thềm nhà trọ và nhìn người ta chất hành lý lên xe bò, xe đạp. Có xe đầy nhóc con nít và hàng hóa cồng kềnh nặng nề mà chỉ có một con ngựa gầy kéo. Lai biết rằng không thể đi trên những xe như thế.
Bỗng một người cao lênh khênh rời quán trọ tiến đến cái xe đạp dựng sát vách. Lai chưa thấy ai cao như vậy, cao và gầy như... cái sào tre. Lai thu hết can đảm lại gần trong khi anh bơm bánh xe:
- Anh đi A-rát?
- Ừ – anh ta vắn tắt đáp.
- Bao giờ đến nơi?
- Trưa nay, nếu bánh xe không bể.
- Anh... anh có thể chở em tôi không? Tôi trả anh 1 rúpi.
- Sao không? Nghề của qua mà, em. Nhưng đi tới chỗ nào chớ? Nói coi?
- Tới trước ga.
- Vậy thì xa lắm, 2 rúpi mới được.
Hai bên mặc cả hồi lâu, sau cùng ngã giá là 1 rúpi, 8 annas. Lai xếp chiếu đặt trên boót-ba-ga để em ngồi cho êm, cho thêm Mai 2 quả chuối ăn dọc đường và dặn Mai đến ga A-rát cứ ngồi chờ mình đến. Mai không phản đối như thói quen: nó chán đi bộ rồi. Được chở, nó sung sướng lắm và đây là lần đầu nó tỏ ra vững lòng phải xa anh.
- Anh chờ tôi trước ga, tôi trả tiền cho anh.
- Không, phải trả tiền trước!
- Phải đợi đến nơi đã chớ!
- Ai bảo đảm mày có tiền? Ngộ mày quịt công tao, chả lẽ tao xẻ thịt mày sao? Mà tướng mày làm gì có tiền, tao không dễ gạt đâu.
- Nếu định lừa anh, tôi mặc cả làm chi? Vả lại có em tôi làm tin mà!
Muốn chứng minh là mình có tiền nên dù chưa quên lời Sâm Du dặn dò, Lai vẫn rút bọc tiền cho gã kia thấy. Gã gặng lại:
- Mà mày có bao nhiêu chớ?
- 20 rúpi lận, anh ơi!
Lai tăng số tiền mình làm chủ gấp đôi lên để chứng tỏ mình là hạng khá giả. Gã đàn ông không nghi ngờ gì nữa. Lai đặt em lên xe đạp rồi đứng nhìn cho đến khi chiếc xe đạp khuất giữa đám đông xe và người. Mai ngoái lại vẫy anh:
- Anh tới mau nghe!
- Ừ anh sẽ tới, đừng sợ!
Lần này Lai đi thật nhanh vì không bận Mai bên cạnh, thật là tuyệt. Đã nhiều lần Lai phải dừng lại, nắm tay Mai, kể chuyện cho nó nghe dù là Lai hết sức nôn nả trong lòng, chỉ muốn đi thôi. Bây giờ thì tự do, nhẹ nhõm quá sức đi. Lai và Cam chạy thi với nhau, đường dài làm nó khỏe hơn thay vì nhọc mệt như khi có con em bên cạnh.
Lai nhận ra gã đạp xe không nhanh mấy và cứ đà này Lai thừa sức bắt kịp anh ta. Gần đến đích, Lai càng nôn nả hơn, nó chỉ dừng lại nuốt vội miếng bánh rồi tiếp tục chạy dưới bóng hàng cây.
A-rát hiện ra như một cái bóng mờ ở chân trời. A-rát! Cái đích xa diệu vợi mà đã nhiều ngày nó chịu vất vả để đến gần. A-rát! Lai kêu lên vui sướng:
- Cam thấy chưa? A-rát đó nghe! Tới nơi rồi đó nghe!
Con vật ve vẩy đuôi tán đồng lời chủ và như muốn tháo bỏ băng đầu.
Xế trưa, A-rát rõ ràng hơn với những mái ngói và đền đài. Dù mệt lử, Lai không ngừng lại hay đi chậm, vì nó muốn đến nơi trước khi tối trời. Lai hãnh diện vì mình đi nhanh quá, vì mình đã điều đình gã nọ chở em trước khi trả tiền, đã dùng nhà ga làm nơi hẹn gặp. Khôn quá đi chớ! Thật đáng tự khen.
Lên đầu dốc, bất ngờ Lai đụng đầu em, con bé nheo mắt nhìn lại phía anh và nó mừng rỡ nhận ra Lai. Lai hấp tấp hỏi:
- Ủa, làm gì đó? Chớ ông kia đâu?
- Ổng kìa, ổng đang ngủ!
Mai chỉ cho anh thấy một cây bồ đề to, rễ chằng chịt quấn đầy thân cây và thòng xuống tận đất, gã đàn ông ngáy pho pho, thân hình gã dài dễ nể! Nó liến thoắng kể tiếp:
- Em phải ra đây đón anh chớ đứng dưới tàng cây em chẳng thấy gì hết, em sợ anh đi qua mất.
Lai phật ý vì gã ta dừng lại khi chưa đến đích song cũng hãnh diện vì bắt kịp. Mai buồn rầu bảo anh:
- Anh biết không, ổng nói nhà thương chật lắm, không có chỗ đâu. Nhiều người phải trở về đó, anh Lai.
- Ổng biết gì mà nói? Cậu thằng Kiên chữa được kìa!
Lai gạt đi, Mai vẫn lải nhải:
- Ổng nói có một cái hội tên... tên (Mai ngẫm nghĩ một lúc lâu) à! Em nhớ rồi này. "Hội Chống Bệnh Mù"... Ổng nói là...
Gã đàn ông ngồi dậy, nghe Mai nói gã cười mai mỉa:
- Thôi, đừng nói tới. Hội đó dành cho những người trong giai cấp cao hơn chớ đâu đến hạng mạt rệp như tụi bây...
Lai như không để ý đến điều gã tiết lộ, hỏi gặng:
- Anh ngừng đây làm chi? Phải chở em tôi tới ga A-rát chớ?
- Ậy, tới bóng mát ngồi nghỉ chút mà, mày chạy mau quá, đuối đa. Nói cho ngay, bánh xe của tao lung lay như răng mụ già, tao sợ nó văng bánh xe ra lề đường thì khốn.
Lai dịu lại, cả ba ngồi dưới bóng cây. Gã đàn ông đựng nước trong cái túi da dê, gã rót mời Lai:
- Nghỉ chút, uống nước đi! Sớm hay muộn chút đỉnh hại gì?
Bầy khỉ từ trên cành kêu khẹt khẹt và vứt cành cây xuống đầu ba người, Mai:
- Anh hỏi chuyện Hội Chống...
- Thật ra, tao cũng mù mờ lắm. Nghe nói Hội chống lại tất cả các loại bệnh về con mắt ở toàn xứ này. Đã giúp được nhiều người lắm à!
- Ông coi thử họ có thể giúp tụi tôi không?
- Không dễ đâu – gã lừng khừng nói – Đâu phải ai cũng được...
Lai đứng lên:
- Ông nói Hội chống lại bịnh con mắt? Vậy thì Hội phải giúp đỡ tất cả mọi người...
- Ai biết đâu. Nhưng chiều nay tao có hẹn với một người bạn cũ ở quán trọ, và tao biết ảnh quen với ông Hội trưởng hội này. Mày thử hỏi coi?
- Được, tôi sẽ theo anh.
Lai đặt em lên xe rồi gã kia và nó phụ lực đẩy xe đến chỗ hẹn: một quán ăn.
Người ta vào tấp nập nơi mấy bàn ăn, thức ăn thức uống bày la liệt. Gã đàn ông cúi xuống mới chui lọt qua khung cửa thấp, gã nói với ra:
- Chờ đó, để tao coi còn anh bạn trong này không.
Nhìn qua cửa sổ Lai dễ theo dõi anh ta vì anh cao lớn dù phòng đầy nghẹt những người. Lai thấy gã len lỏi giữa đám đông đến gần một gã đàn ông khá mập, đầu đội khăn. Gã có vẻ cố thuyết phục người kia vì Lai thấy gã vung tay múa chân thật hăng.
Chà! Hội Chống Bệnh Mù! Nghe tên cũng đủ... mê! Chắc là lớn lắm, chắc hội ấy giúp cậu Kiên vào nhà thương chớ không sai. Mong sao cho người đàn ông mập mạp kia bằng lòng giúp Lai... Để coi, nhờ trời... con voi xám... vận may...
Mai mệt mỏi ngồi cạnh anh, thỏ thẻ hỏi:
- Em nằm xuống chút được không? Em trải chiếu chỗ cái xe đạp...
- Khoan đã, chờ chút coi nào! Họ gần ra kìa. Anh sẽ đưa em lại quán ăn, ngủ đàng hoàng.
Hai gã đàn ông cùng đi ra. Lai khấp khởi mừng thầm. Họ ra hiệu anh em Lai vào quán, rồi họ chọn một cái bàn to ngồi xuống. Lai cũng kêu hai tô cháo dù biết là giá đắt. Gã gầy cao dọn giọng:
- Ông bạn qua đây nói là Hội chỉ chăm sóc các Hội viên của Hội thôi. Có nhiều đốc-tờ giỏi số dách chữa lành mắt cho mấy ông Hoàng và các nhà giàu. Đó, mấy em thấy chưa? Qua nói có sai đâu? Không phải ai cũng được săn sóc, trừ hội viên...
Lai nóng nảy hỏi, tay mở gói lương thực bần hàn gồm có khoai lang và phô-ma:
- Phải tốn bao nhiêu tiền mới vô hội được, hở ông?
Gã mập nói lửng lơ:
- Cái này ta cũng không rành gì, nghe đâu cỡ mười rúpi hay trên là ít nhất.
- Tôi chỉ có 8 rúpi, chừng đến A-rát gặp chú tôi, may ra có thể...
- 8 rúpi ít quá, làm gì được?
- Thôi, anh bạn, thông cảm giùm, nhờ anh nói giúp cho một tiếng. Với đứa nhỏ như con bé kia thì tôi nghĩ là 8 rúpi cũng có thể... Tội nghiệp nó, con người ta cũng như cháu mình mà, anh! Đừng làm khó...
- Thì cũng muốn giúp theo lời chú nói chớ, có điều 8 rúpi chưa đủ. Chú biết tánh tôi chớ. Nhưng đâu phải ai cũng như mình, đời này tồi tệ quá, có tiền mua tiên cũng được mà...
- Xin ông vui lòng giúp em tôi... tội nghiệp nó... Tôi xin đưa liền số tiền để ông lo liệu.
Lai vừa khẩn khoản van nài, vừa rút trong bọc ra 8 rúpi còn lại đưa cho gã. Gã hơi nghĩ ngợi rồi tặc lưỡi một cái, gật gù:
- Để coi, coi... Thôi, kệ, lâm nguy bất cứu mạc phi anh hùng, ta sẽ cố gắng giúp em.
Lai gãi đầu gãi tai:
- Xin ông viết cho tôi cái biên nhận, làm tin.
- Hả? Biên nhận? Nghĩa là mày không tin hảo ý của tao chớ gì?
Giọng gã giận dữ làm Lai cuống lên. Tên gầy can thiệp:
- Anh chấp con nít làm gì? Không sẵn biên nhận đây thì đưa cho nó cái nhẫn làm tin cốt sao cho được việc là quí rồi. Giúp ai phải giúp tới cùng...
- Chờ đây chút, tụi tao sẽ trở lại ngay. Cho mày hay tao nể bạn tao chớ cái giọng của mày làm tao dóa rồi đa.
Lai hồi hộp nhìn gã cho tiền mình vào túi áo, gài kim cẩn thận rồi cả hai lên xe đạp dông liền. Nghĩ cũng kỳ: ban nãy thì thấy cái xe có vẻ ọp ẹp, lung lay mà giờ trở thành chắc chắn, chở gã mập sau boót-ba-ga chạy mau như gió! Mai gục đầu trên bàn ngủ tự bao giờ rồi, mặc anh với mối bận tâm đáng kể.
*
Thời khắc trôi qua. Lai vẫn ngồi thẳng trên ghế nhìn bóng tối dày đặc bên ngoài, sao đêm lấp lánh. Mỗi lần có tiếng động sau lưng là nó lập tức quay lại và nghe tiếng cửa mở nó cũng giật mình, chong mắt nhìn song vô ích, hai gã kia biệt tích luôn dù là đã hứa bằng giọng chắc nịch "trở lại ngay", Lai nhấp nhỏm trên ghế như thể có kiến đốt ở gan bàn chân. Có lý nào họ lừa mình? Mấy lời văn hoa bóng bẩy của gã ta còn như rành rành trong óc Lai: Lâm nguy bất cứu... Đâu có lý nào? Nếu muốn lừa nó thì anh gầy cao đã lừa từ đầu, cần gì phải đợi đến đây, vả lại anh ta có cầm tiền đâu? Chính gã mập giữ tiền mà, hơn nữa gã mập cũng do dự cho đến khi bạn năn nỉ chớ đâu thấy tiền là chớp liền? Không nên phụ lòng tốt của người ta, nghi ngờ mang tội chết, bà nội hay dạy Lai như thế. Biết chừng xe đạp hư, bể bánh, ừ phải: anh mập nặng quá...
Dù Lai đã tìm mọi lý lẽ để bênh vực hai kẻ là và để tin tưởng rằng mình không mất toi tiền, song than ơi! Bằng cớ hùng hồn nhất là họ không trở lại. Họ không bao giờ trở lại.
Chủ quán, một người to lớn vui vẻ với mọi thực khách từ đầu hôm, giờ ngáp dài đến gần Lai bảo nó thức em dậy vì đến giờ đóng cửa. Lai xin phép ngồi lại để chờ "Hội chống bệnh mù đến trả lời" làm ông ngạc nhiên, ở đây suốt mấy chục năm, ông chưa nghe đến cái Hội này lần nào. Ông cũng không để ý đến hai gã kia, thực khách đông quá. Phần Lai vẫn còn tìm cách chống chế cho hai tên lưu manh:
- Thưa ông, cháu chắc họ lương thiện...
- Cháu khờ quá, lấy gì chứng tỏ họ lương thiện?
- Dạ, họ có đưa cháu cái nhẫn quí làm tin – Lai nói và trao nhẫn cho ông.
Ông chủ quán nhìn qua cái nhẫn, nhăn mặt:
- Đồ giả, không đáng vài xu. Khốn nạn! Đi lừa con nít. Cháu đưa chúng hết bao nhiêu?
- Tất cả tiền còn lại: 8 rúpi, thưa ông.
Chủ quán đập bàn cái rầm:
- Để ta đi gọi cảnh sát liền cho.
Lai nhảy chồm lên như bị ong chích:
- Không! Đừng! Cảnh sát sẽ bắt cháu mất, ông ơi!
- Bậy! Chờ đây! Ta trở về ngay, 5 phút thôi, cháu ạ!
- 5 phút! 5 phút! – Lai rên rỉ trong khi chủ quán quay lưng đi – Mai! Dậy mau! Phải trốn gấp chớ cảnh sát tới thì khổ thêm! Mai!
Lai lo lắng quá: lần này nó có nhẫn trong mình! Chủ quán bảo nhẫn giả, nhưng biết chắc không? Mai vẫn ngủ mê mệt, Lai lôi tuột em từ trong nhà ra cửa. Mai cầu nhầu:
- Cho em ngủ mà... cho em ngủ...
- Mày nghe đây nè: cảnh sát tới liền đa! Cảnh sát, nghe chưa?
Mặc anh lo sợ, Mai xoay mình lại, ngủ ngay dưới thềm nhà. Lai tính lôi em ra xa một chút song nhớ đến cái chiếu và cái soong. Kể từ đây của cải còn lại chỉ là hai thứ đó, mà trong lúc rối trí nó đã để quên trong quán. Lai bỏ mặc em, chạy bay vào trong và khi trở ra, Lai đụng đầu cảnh sát cùng chủ quán, họ đang cúi nhìn Mai. Ông này ngạc nhiên:
- Sao nó lại nằm đây, hả cháu?
Lai nghẹn cổ không biết giải thích ra sao. Trong uất khổ tột cùng Lai bỗng trở thành lỳ lợm không còn sợ hãi nữa, nó hét lên:
- Tôi không phải kẻ gian! Tôi ngay thẳng mà!... Chính mấy người vu oan, hại tôi...
Lần thứ nhất, Lai nức lên khóc không cần giữ gìn.
*
Đây là một viên cảnh binh bạn dân đúng nghĩa của tiếng ấy. Ông ta kiên nhẫn dỗ dành Lai, giải thích sự có mặt của mình do lời tố cáo của chủ quán chớ không phải ai muốn làm hại Lai. Thằng bé tỉnh trí lại, kể rõ từ đầu: cùng cha đến nhà mụ Ất Vi vay tiền để đi chữa mắt cho em làm sao, dọc đường gặp Sâm Du ra sao, bị cảnh sát rượt và lão gác cổng xe lửa bắt ra sao, trốn thoát cách nào. Gặp ông Hoàng được đãi ngộ ra sao và cuối cùng đưa 8 rúpi để được chữa mắt em ra sao. Và nó lại khóc ròng – trong đời nó, nó chưa từng được khóc hả hê như vậy. Viên cảnh binh chờ nó dứt lời rồi mới ôn tồn cất tiếng:
- Em đừng sợ nữa, bà Ất Vi đã tìm thấy nhẫn quý: nó ở ngay trong nhà bà ta chớ không mất đâu hết, và bà ta đã rút đơn kiện em rồi. Bây giờ, em phải tả hình dạng hai thằng gian để ta tìm bắt, đòi tiền lại cho em, tuy không chắc mấy.
Lai ngoan ngoãn vâng lời. Chủ quán bảo:
- Nói cho ngay, tôi cũng nghĩ như ông. Đáy biển mò kim: thành phố này có biết bao nhiêu thằng phệ và thằng ốm tong, cao như một cái sào?
Vả lại, mình cũng đào đâu ra tiền mà thưởng cho người truy nã? – Lai nghĩ. Chủ quán bế Mai lên đặt trên giường. Hôm sau, hai đứa được ông đãi một bữa no nê. Chiều lại chúng đến A-rát, bụng đầy nhưng túi rỗng!
Chương 10
Thành phố này nhỏ và yên tĩnh hơn A-la-ha-ba, không ồn ào mà lại có nhiều vườn rộng xanh tươi, điểm đầy hoa hồng và tường vi bao quanh các khách sạn chứa đầy người Âu da trắng bệch, nằm dài trên ghế dựa, ưa mua hàng thêu và da rắn của dân bản xứ.
Hàng đàn ăn mày chờ du khách trước cửa khách sạn và hàng tá xe kéo hai bánh. Lai và Mai ao ước được vào nằm dưới tàng cây nhìn người dụ rắn dưới bóng mát của khu vườn. Bọn này khá đông, ngồi nhón gót thổi sáo đệm cho điệu múa của mấy con hổ mang.
Rồi chúng đến công trường chợ. Thức ăn bán đầy nhóc nhưng chúng không thèm vì dạ dày đầy lắm và phấn khởi vì sắp gặp chú nên thong thả ngắm nghía các hàng bày bán một cách thản nhiên. Chúng hỏi vài người về chú mình: ông A li Sinh làm công cho nhà ông A li Rớt, song ai cũng lắc đầu, bảo không hề nghe đến tên này. Sau cùng, một người chỉ chúng đến nhà ông Ai li Rớt.
Đó là một ngôi nhà trắng đồ sộ, hành lang trồng đầy hoa hồng, nhà cũng nằm sâu giữa một khu vườn như những khách sạn chúng thấy vừa rồi. Chao! Ngôi biệt thự trắng cho đến nỗi hai đứa lo lắng tự hỏi: không biết mình dơ bẩn quá, có đáng được bước vào không?
Sau cùng, chúng đánh bạo bước đến khi đã vòng sau tường sửa soạn mất một giờ: Mai tháo tóc ra, giũ bớt bụi bám dày, thắt lại hai bím, vuốt vuốt cho láng. Lai thì lo chải bụi con Cam. Bà Hà tốt bụng đã giặt hộ áo quần Mai và Lai, lại cho Mai đôi xăng-đan, nhưng bụi đường biến tất cả thành một mầu không tên.
Mai không hứng khởi mấy, vì nó cho là Lai bày đặt thêm chuyện vô ích. Cuối cùng, đặt hành trang dưới gốc cây, men theo con đường có nhiều vết xe – điều này chứng tỏ người ta không đi bộ? – Lai giữ thật thẳng lưng chững chạc bước vào.
Con đường đưa đến cái sân rộng có trồng nhiều nguyệt quế trong chậu trông xa như những người đứng dàn chào dọc theo tường. Cửa được mở rộng – tất cả các cửa. Một đứa bé gái đang chơi với con búp bê cạnh bà vú.
Bà ta có vẻ ngạc nhiên, chắc lần thứ nhất có người đi bộ vào đây. Anh em Lai cúi chào lễ phép, đã không được chào lại mà còn nghe bà cự cho:
- Đây không tiếp ăn mày, cũng không tiếp chó!
- Chúng tôi không phải ăn mày. Chúng tôi đến tìm ông A li Sinh, xin bà chỉ...
- A li Sinh là ai?
- Chú tôi. Ông giúp việc cho ông A li Rớt...
- A! Tôi biết ông A li Rớt: ông ấy bán nhà này cho cha tôi, đi rồi.
Đứa bé từ nãy nấp sau lưng bà vú tò mò nhìn anh em Lai, lên tiếng nói.
Lai choáng váng. Cột nhà, những cây nguyệt quế, tất cả như xoay tròn trước mắt, nó cố gắng mới nói được:
- Ổng không ở đây nữa, vậy ở đâu, thưa bà?
- Ông đi Tân Đề Li hơn một năm nay.
Tân Đề Li? Lai nghe nói đó là thủ đô nước Ấn, là nơi ông Nê Ru và các tổng bộ trưởng làm việc, rất xa nhưng có thể đi tàu hỏa đến. Lai thất vọng quá đỗi. Mai cằn nhằn:
- Đó! Anh thấy chưa! Bắt em chải tóc hai ba lần sáng nay chi cho mất công?
Lai cảm ơn bà vú và dắt em ra, cố giữ cho đầu ngẩng cao, lưng thẳng. Lai nghe tiếng đứa con gái cười to sau lưng:
- Vú ơi! Mình ở đây sao họ không biết, vú hở?
- Ừ! Vú cũng lạ lắm. Ông A li Rớt đi cả năm rồi mà không biết.
*
Không còn trông cậy vào ông chú được, Lai đành tự tìm lấy bệnh viện. Lai hỏi thăm từng người, cho đến khi tới được bệnh viện đồ sộ, có hàng trăm khuôn cửa sổ đều tăm tắp. Đây không phải là bệnh viện lớn nhất xứ Ấn Độ, song anh em Lai quen với những làng quê nhỏ bé, nghèo nàn thì thật là vĩ đại. Trước một khối đá như thế, chúng ngỡ như mình là con kiến trước trái núi.
Tiếng còi xe làm chúng hoảng hồn, chạy quáng quàng bên phải và bên trái. Người ta vào cổng lớn trước mặt chúng tấp nập, song chả một ai để ý đến chúng, có khi còn xô đẩy chúng khi chúng choán đường.
Vốn quen bị bạc đãi, song chúng đã len lỏi đến tận đây mà được đón tiếp cách đó thì cũng... buồn thật. Lai rất nản lòng. Bao nhiêu phấn khởi trong lòng nó như cánh hoa tàn rơi lả tả dưới nắng hè. Nó cảm thấy không còn chút hăng hái để bước vào trong cái cổng mà bao nhiêu ngày đêm nó ước mơ. Mai thì nhìn những thanh niên nam nữ mặc bờ-lu trắng cười cười, nói nói đi qua, diễu lại trước mặt nó thấp thoáng như có lớp sa mù. Nó không thấy chán nản như anh và còn phát biểu ý kiến:
- Em muốn mặc áo như họ khi biết đọc rồi, anh Lai ơi!
Lai chợt tỉnh. Đã khổ nhọc đến đây há lại chịu thua sao. Phải đi đến cùng chớ! Nó đặt bọc hành lý tồi tàn lên đầu rồi dắt Mai chậm chạp bước vào cổng.
Trước mặt nó, ông gác đột ngột xuất hiện như vừa từ dưới đất trồi lên, ông ta có vẻ như một quân nhân hung hãn, đầu đội khăn cao, hàm râu chải mượt, chẻ làm hai như một đường rẽ trên mái tóc. Ông chiếu cái nhìn xoi bói vào nó, hỏi:
- Đứng lại! Đi đâu đây?
- Chúng cháu... Thưa ông, chúng cháu đến xin mổ mắt cho em cháu...
- Ai bảo vậy?
- Thưa, không ai bảo cả.
Lai càng ấp úng, nó bối rối không tìm ra được một câu ra hồn cho ông gác nể. Nom ông ta như người gác đền Thánh ấy.
Một xe cứu thương hụ còi, hai đứa vội nép sang một bên trong khi ông ta đưa tay lên khăn, chào. Xe qua rồi, ông nói:
- Ở đây là chỗ làm việc, chỉ người có việc mới đến đây. Không phải chỗ xin ăn, cút xéo!
Nếu biết đọc, Lai có thể biết rằng đến giờ thì người đến xin khám bệnh có quyền vô cửa, ông gác không cản trở được. Nhưng Lai mù chữ, nó nhìn bảng cáo thị ghi giờ ra vào bệnh viện như nhìn bụi cây, khổ thế đấy! Lai ngỡ là họ cấm vào đó bất cứ giờ nào. Thấy nó cứ đứng tần ngần, ông gác nóng nảy:
- Đừng bày chuyện, tính gạt tao hả? Người nào sắp mổ thì luôn luôn là xe cứu thương chở vô đây.
- Tụi cháu đi bộ từ A-la-ha-ba đến đây.
Lai nài nỉ, làm như ông gác sẽ phục mình vì vượt qua đoạn đường dài. Nào ngờ, ông ta lại càng cho là nó bịa. Hừ! Nhiệm vụ của người gác là gì? Canh chừng đừng để kẻ vô phận sự làm lộn xộn ở đây, ông chả dính dáng gì đến việc chữa trị, vậy ông nhất định làm tròn bổn phận, xứng đáng đồng lương. Ông cười gằn:
- Hả? Đi bộ từ A-la-ha-ba đến đây? Nếu vậy thì cũng đủ sức trở về, ra mau!
Hai đứa dắt tay nhau lang thang khắp các đường. Mai khóc sụt sịt:
- Thành phố A-rát này toàn người ác, người giàu. Làm sao đây, anh Lai!
Lai không nói gì cả. Chúng dừng chân, ngắm một ngôi nhà đang xây cất, nhiều thợ đàn ông và có cả thợ đàn bà với vài đứa trẻ phụ đội hồ đến cho họ xây tường. Lai nghĩ thầm "nếu mình xin được việc làm ở đây, anh em sẽ khỏi chết đói, chờ thời!" Nhưng Lai vừa bước lại gần, người cai xua tay:
- Chờ tới giờ nghỉ rồi sẽ tới xin việc! Tránh ra, mau!
Chao! Đi đến đâu anh em nó đều có vẻ là kẻ phá đám, làm rộn chi đây?
Đột nhiên, Lai kêu lên mừng rỡ vì nhận ra khuôn mặt người quen:
- Giang! Mày làm gì đây? Con gấu đâu rồi?
- Nó chết rồi. Chắc nó kiệt sức quá. Cha tao bỏ xác nó cho bầy quạ...
- Tội nghiệp nó!
Lai nói nhưng cảm thấy nhẹ nhõm vì nghĩ rằng con vật thoát kiếp đọa đầy.
- Kiếp sau chắc nó sướng hơn. Lai à! Khổ là giờ cha con tao không có kế sinh nhai.
- Vậy thì... làm sao?
- Gần chết đói đó, mày ơi! – Giang nhìn Lai bằng con mắt độc nhất còn sót lại – Giờ thì mới xin được việc ở công trường này. Nhờ có tao phụ mang gạch tới cho cha tao nên họ mới nhận. Mà mày biết không, họ chỉ trả một phần lương thôi. Cha tao tính dành được chút ít sẽ mua con khỉ biết làm trò.
- Giang ơi! Mày coi họ có cho anh em tao làm việc ở đây không? Tụi tao cũng sắp chết đói đây nè.
Giang nhìn thân hình còm nhom, tiều tụy của Mai:
- Em mày hả? Làm sao nó bưng gạch nổi?
Mai thẳng người, trịnh trọng hất hai bím tóc ra sau vai:
- Em cũng đi bộ từ A-la-ha-ba tới đây được, sao...
- Ừ! Thì cứ thử thời vận đi. Ủa, mà tao nghe nói mày dắt em đến bệnh viện?
- Họ không cho vô, Giang ơi!
- Tao cũng vậy! Hồi bị thương con mắt họ đâu có cho vô chữa? – giọng thản nhiên của hạng người luôn luôn cam chịu bất hạnh. Giang nói tiếp – Rồi lâu quá nó cũng... bớt đau. À! Nếu mày không tìm việc được thì sắp hàng chỗ đền thờ bên kia đường nghe, mỗi ngày họ bố thí cho kẻ đói một lần... Nhớ chưa?
- Đồ nhác nhờn! Mày đứng nói tầm phơ trong lúc cha mày chờ gạch. No rồi hả?
Cha Giang trờ tới quát lên. Lai nắm tay em chuồn lẹ.
Quả Giang nói đúng: dân thất nghiệp nhiều quá, dù Lai cố làm vẻ khỏe mạnh nhưng khối người khác cao lớn và khỏe mạnh hơn nó. Thế là đành theo lời Giang chỉ vẽ. May mắn thay: chúng được một vắt cơm đựng trong lá bàng.
Ăn xong, chúng nghỉ dưới bóng mát của một bức tường. Tiếng chuông từ trong đền ngân lên nhè nhẹ, trầm trầm, nhắc chúng nhớ đến bà nội vẫn cầu kinh trước tượng thần. Mai nằm lên chiếu, Lai ngồi bên em, lim dim mắt. Chúng cảm thấy nhớ nhà hơn bao giờ. Vào giờ này, trâu đã về chuồng sau một ngày nhọc nhằn ở ruộng, chúng nôn nả chen nhau, xô đẩy nhau như lũ trẻ lau hau đòi ăn. Các em Lai mang rơm đến cho chúng, còn mẹ Lai thì săn sóc em út và phát cho tất cả bọn lớn mỗi đứa một cái bánh nướng.
Nhà! Nơi duy nhất chúng được đón tiếp nồng hậu, dù cha mẹ chúng nghèo xác xơ. Lai cột Cam vào cái khoen trên vách và dặn nó trông chừng Mai, rồi đến công trường tìm Giang, kẻ duy nhất có thể giúp nó chút đỉnh.
Đầu óc rỗng tuếch, mệt nhoài, Lai đi như trong mơ, mặc cho bộ hành xô lui, đẩy tới. Một lúc sau, như nhờ phép lạ, nó đứng trưóc ngôi đền Taj Mahal.
Lai mù tịt nào ngờ đây là một nơi hành hương đẹp và nổi tiếng khắp thế giới. Trong thành phố mà nó bị xua đuổi tàn nhẫn, ngôi đền như một thiên đường mở rộng. Lai như bị thôi miên, đứng ngắm say mê. Bà nội đã kể cho Lai nghe sự tích ngôi đền này: trước đây nhiều thế kỷ, một ông vua đã cho xây lăng để kỷ niệm người vợ quá cố, đó là ngôi đền vĩ đại, nạm đá quý, mất 18 năm mới hoàn thành và 18.000 công nhân đã làm việc suốt ngày đêm. Nhưng Lai đâu ngờ có một ngày mình được đến trước đền, và đứng trước đây rồi, nó vẫn không biết chính là ngôi đền bà kể, tuy nhiên Lai công nhận là nơi này nguy nga, đồ sộ, lộng lẫy lắm.
Khu vườn, dưới nắng gay gắt mà vẫn tươi mơn mởn, trải dài trước mắt nó với vô số cây cao đầy hoa và những bụi hồng cũng đầy hoa. Nhiều hồ nước trong veo, nằm thành hàng dài, phản chiếu hình ảnh ngôi đền, rực rỡ cho đến nỗi Lai đứng sững, nhìn không biết chán.
Những mái hình tròn cao, trắng lốp như lấn át, tràn ngập cả một vòm trời. Lai cho đó là những núi trong dãy Hi mã lạp sơn mà thần In-ra quyết định mang bớt ra đặt tại đây, chắc thế, vì nom chúng có vẻ nhẹ hẫng như có thể treo lơ lửng giữa tầng mây!
Lai quên tuốt hết thực tại đắng cay mà nó đã và đang nếm trải, bọn lừa đảo, ông chú biệt tăm, lão gác nhà thương... Vòm đền to lớn nhưng nom mong manh như ren, khung cảnh thần tiên, đẹp tuyệt vời và Lai cảm thấy được an lành, thoải mái trong lòng. Lai dạo quanh hồ, hết nhìn ngôi đền phản chiếu trên mặt nước lại nhìn cái mái tròn cao ngất ngưởng giữa trời. Cả hai đều kỳ diệu, huyền ảo.
Mọi người tháo giầy trước khi vào đền. Lai chẳng có giầy để tháo, nối bước theo họ. Bên trong tối om nên Lai không nhìn thấy nóc đền, như thể đứng giữa đêm tối không trăng sao. Đây là nơi yên nghỉ của một bà Hoàng. Một vị sư, có bổn phận canh giữ đền kêu lên một tiếng, tức thì tiếng kêu vọng từ vách này sang vách khác, âm vang to dần to dần và như lên cao thêm, chừng như tiếng kêu tìm lối thoát trên đó, xuyên qua vòm lá. Lai tự nhủ thầm: "Dám có đường lên trời trên đó lắm à!" và nghe tiếng tụng niệm của vị sư, Lai cũng thì thầm:
- Xin Nữ thần Từ bi của Bóng tối giúp con. Chắc lỗi tại con mà em con không được nhận vô bệnh viện chữa mắt. Xin ngài rủ lòng thương em con. Giúp con vì em con chứ không phải vì con. Trước nay con mong em con lành bệnh vì cầu lợi cho con...
Tiếng tụng niệm của hàng sư càng lúc càng to. Lai đứng thẳng, ngẩng đầu, mở to mắt như nó có thể thấy nữ thần. Khi tiếng tụng kinh tắt, nó có cảm giác lời cầu nguyện của nó cũng được sự chấp thuận của Nữ thần.
Nó chợt hiểu phải làm gì: đưa Mai đến gửi nhà bà Hà rồi kiếm việc làm, chờ có đủ tiền đem em về nhà. Bây giờ đây mạng sống của em nó quý hơn đôi mắt. Phải trở về, ngay chiều hôm nay, trong lúc Mai còn no và chưa kiệt lực. Đừng để ngày mai, sẽ muộn cho coi.