Tiếng sấm Dương Châu - Chương 3 & 4

Chương 03

Cụ Thiên Hộ đến trấn thì trời đã tối hẳn. Cụ Thiên Hộ ngồi xuống bên vệ đường để nghỉ và cảm thấy cơ thể như muốn rã rời. Mặc dầu chưa ăn cơm tối cụ vẫn không thấy đói, trong lòng chỉ băn khoăn không biết Khải Hòa sự thể ra sao. Cảm thấy bớt mệt cụ mới đi đến cổng dinh thì thấy cửa đóng then gài, lính canh qua lại như không có chuyện gì xảy ra. Cụ cố nhìn vào xong, nhưng thành cao, tường dầy không sao thấy được. Biết rằng quanh quẩn mãi đây cũng vô ích, có thể khiến cho quân lính ngờ vực sinh chuyện lôi thôi, cụ bèn tìm đến một nhà người quen, gọi là Thập Biện, giữ chân lính hầu cho quan Lệnh Trấn.

Thập Biện ăn cơm xong đang còn ngà ngật về mấy chén rượu, chửi lảm nhảm tứ phương - nhất là chửi những bọn hương lý ngày ra vào ở chốn công môn mà không biết rõ Thập Biện là người quyền thế nên chẳng chào thưa phải phép. Cụ Thiên Hộ đứng ngoài cửa đợi cho Thập Biện chửi xong mấy chục vòng thường lệ rồi mới bước vào, lễ phép chào lớn :

- Chào anh.

Thập Biện nhướng cặp mắt nhấp nhem lên nhìn, quát to :

- Ai hỏi gì ta đó ?

Cụ Thiên Hộ đáp :

- Thiên Hộ đây. Đã lâu không ghé thăm ông anh được, nay nhân có dịp tìm đến vấn an.

Thập Biện như sực nhớ rạ cười ha hả :

- À, anh bạn già Thiên Hộ ! Thế nào ? Lúc này dòng sông Dương Châu còn nhiều cá chứ ?

Cụ Thiên Hộ biết rằng mình không có quà cáp biếu xén là điều thất sách, nhưng phải liệu lời chống chế, làm vẻ ngạc nhiên :

- Trời ơi ! thế từ lâu nay ông anh sức khỏe không được khang cường hay sao ?

Thập Biện trợn mắt lên :

- Sao lại hỏi ta như thế ?

Cụ Thiên Hộ trả lời :

- Chắc là ông anh cũng rõ dòng sông Dương Châu lắm cá, lắm tôm nhưng từ khi bị thủy quái đến giờ, chẳng ai còn dám bước chân xuống nước. Tưởng là ông anh lâu nay sức khỏe sút kém nên không bước chân ra ngoài…

Thập Biện bĩu môi đáp :

- Việc gì ta lại chẳng biết. Cho đến cái thằng… cái thằng gì hả ?

Thập Biện nhíu mày, trợn mắt cố nhớ cho ra :

- À… à… cái thằng… Khải Hòa giết con thủy quái ra sao, ta cũng rõ từng chút một. Anh biết nó chứ ?

Cụ Thiên Hộ trả lời :

- Có biết đấy ạ. Thế quan trên ban thưởng cho nó gì chưa ?

Thập Biện cười khảy đáp :

- Ban thưởng rồi.

Và lập tức anh ta nổi giận lên :

- Cái thằng bợm bãi ấy anh bảo phải ban thưởng cho nó cái gì ? Sáng nay, lý trưởng Hà Huy vừa cỡi ngựa chạy lên thì quan Lệnh đã hay tin trước, hầm hầm chực sẵn, gọi vào. Quan hỏi : "Đứa nào dám giết thủy quái ?" Thì lão Hà Huy run như cái đuôi thằn lằn, khai hết sự thực. Nghe xong, quan lệnh càng thêm giận dữ bảo rằng : "Ta đã làm văn tế là để xua đuổi yêu loài, nó lại tự tiện vượt quyền của ta khoe khoang sức khỏe, không xem uy lực của ta ra gì. Thế ra ta phải mất công gọt vần chắp điệu để mà đùa bỡn phải không ? Nó chẳng đợi thủy quái ra đi êm thấm lại khiêu khích oan hồn của giống yêu ma quấy nhiễu dân lành, thật là bất trị. Ngươi há chẳng biết rằng con thủy quái để sống thì hại người có một, mà giết nó chết thì hại mười. Rồi đây hồn ma của nó tác quái cho xem ! Thằng Khải Hòa này quả thực là phường đạo tặc, là hạng cường khấu ngu si. Nó muốn làm chuyện phi thường để gây tín phục trong đám dân quê dốt nát hầu mong phá rối trị an. Bây giờ không sớm trị nó thì sau khó lòng dẹp loạn". Anh đã nghe chưa ? Việc gì mà ta không biết ? Quan Lệnh ngài thực sáng suốt hơn người, thấy việc xảy ra được trước mười năm là ít. Cái thằng dân chài Khải Hòa này để cho nó sống, thì mười năm nữa rồi xem, e rằng chúng ta không còn ngồi yên với nó được đâu.

Thập Biện ngừng lời. Rồi đột nhiên cười phá lên ra dáng hả hê :

- Cho nên quan Lệnh ban thưởng nó rồi. Ban thưởng như thế thật là xứng đáng !

Cụ Thiên Hộ ngơ ngác hỏi :

- Ban thưởng gì đấy, thưa anh ?

Thập Biện đáp :

- Lại không biết được hay sao mà còn phải hỏi ? Ban thưởng gì nào ? Anh muốn phong chức cho nó hay sao ?

Rồi Thập Biện trợn mắt, đưa bàn tay lên chặt xuống mặt bàn :

- Thưởng như vậy đó.

Cụ Thiên Hộ hoảng hốt kêu lên :

- Chém rồi ?

Thập Biện ra vẻ quan trọng, nghiêm nghị đáp :

- Chém đầu lập tức. Để nó sống làm gì hở ? Thủy quái mà nó giết được thì cái cửa ngục nó phá cũng được. Chém là thượng sách. Mà không những trừ nó là xong đâu...

Thập Biện dừng lời nheo mắt nhìn cụ Thiên Hộ, như muốn bắt cụ đợi chờ. Cụ Thiên Hộ trong lòng chết điếng, những muốn kêu trời mà khóc, nhưng cố nén lòng hỏi thêm :

- Vậy quan trên còn định ra lệnh gì nữa ?

Thập Biện gật gù cái đầu :

- Lệnh trên không phải dễ gì ai cũng biết được cả đâu. Nhưng chỗ anh quen thân, ta mới bảo cho rõ đấy. Nghe đâu tên Khải Hòa này còn đứa con trai, để cái mầm loạn sống sót thì thêm nguy hại…

- Thế ra phải giết luôn cả con nó ?

Thập Biện cười đáp :

- Chẳng lẽ giết được thằng cha mà không giết được thằng con hay sao ? Trừ loạn thì phải trừ cho tiệt gốc mới là thượng sách. Quan đã ra lệnh từ chiều.

Cụ Thiên Hộ ngồi yên, cúi thấp mái đầu đã bạc như không nghe gì nữa. Đôi vai gầy của cụ rung lên và nước mắt chực tuôn trào. Cụ bèn đứng lên, từ giã. Thập Biện không muốn giữ lại, mời đưa một tiếng, và cụ Thiên Hộ vội vã ra về.

Cụ bước trong khoảng đêm dày, tưởng như nghe thấy đất trời chao đảo. Tai cụ như ù đi, mắt cụ như mờ hẳn, chân bước trên đường mà như chập chờn bước trong một giấc chiêm bao. Ra đến giữa đồng, gió từ sông xa thổi về mát lạnh, cụ mới tỉnh trí, dừng lại bên đường. Những gì cụ đã lo toan bây giờ đã thành sự thực và sự thực lại càng bi đát hơn nhiều. Cụ nghĩ lại cuộc đời Khải Hòa, nghĩ đến nỗi khổ mà anh đã trải qua trong cuộc sống, từ những ngày làm thuê ở mướn cho nhà họ Vương đến khi vất vả một mình nuôi con trong túp lều nhỏ, bao nhiêu thiếu thốn, nhọc nhằn chịu đựng suốt cả một đời, và bây giờ đây bỏ xác oan uổng không người thân yêu chăm sóc mộ phần. Nước mắt già nua của cụ, giữa chốn vắng vẻ ràn rụa tuôn ra như những dòng suối chảy từ lòng sâu của một ngọn núi cằn cỗi.

Rồi cụ lại đi, hối hả trở về. Nhiều lần cảm thấy quá sức nhọc mệt không sao bước nổi, cụ tưởng ngã gục trên đường nhưng lại gượng bước, cố hướng cặp mắt già nua về nẻo xóm làng quen thuộc.

Cụ về tới xóm thì khuya lắm rồi. Mọi người đã ngủ, giấc ngủ yên lành thiêm thiếp theo sau một trận lo âu dằn vặt nhiều ngày. Cụ rẽ vào ngõ nhà Khải Hòa, lại gần cánh cửa lắng tai nghe ngóng và đoán thằng nhỏ Khải Hùng đã ngủ mê say, cụ bèn về nhà. Khi cụ đẩy cửa bỗng nghe Khải Hùng kêu lên mừng rỡ :

- Trời ơi, cụ về đây rồi ! Để cháu tìm lửa.

Lát sau, thằng bé thắp được ngọn đèn, đem lên giữa nhà. Nó nói :

- Sau khi cha cháu bị bắt đi rồi lại thấy cụ vội ra đi cháu thực lo lắng, sang đây trông nhà cho cụ...

Cụ già ngồi yên nhìn chăm chăm vào Khải Hùng giây lâu và nén khóc nói ôn tồn, chậm rãi :

- Khải Hùng, ta muốn nói riêng với con điều này…

Thằng bé ngước mắt, đợi chờ. Cụ già tiếp lời :

- Từ đây ta với cháu đành phải xa nhau, không biết bao giờ mới gặp. Cuộc đời của cháu rồi sẽ khó khăn, nguy hiểm, không thể lường trước ra sao. Nhưng đừng buồn, đừng lo, cứ chịu khó mà sống, mà phấn đấu với đời. Cháu đừng khóc lóc khi nghe tin này : Cha cháu đã bị giết rồi.

Khải Hùng ngồi sụp xuống nền đất, gục đầu vào cột, cố giữ cho khỏi tiếng khóc. Ông cụ nói tiếp :

- Thôi, đừng buồn. Quan trên sáng mai sẽ cho bọn lính về đây giết luôn cả cháu.

Thằng bé ngước mắt nhìn lên. Trong ánh đèn dầu lờ mờ, cụ già nhìn thấy long lanh những ánh căm hờn trên cái khuôn mặt trẻ thơ. Cụ nói :

- Phải tự cứu thoát, đừng để phải chết một cách oan uổng. Cháu hãy ngồi đây, từ đây bắt đầu cuộc đời lưu lạc của cháu. Hãy lo về nhà gói ghém áo quần, tìm xem còn gạo muối và các thức ăn gì khác thì mang sang đây. Ta cũng thu gói phần ta cho cháu.

Cụ Thiên Hộ lục lọi và còn bao nhiêu gạo, khoai, muối, mắm trong nhà gói ghém cả lại. Khải Hùng cũng chạy sang, hai tay cầm gói nhỏ. Hai gia đình đều nghèo, lâu nay bị loài thủy quái tác hại họ gần như cạn sạch cả thức ăn. Cụ Thiên Hộ nhìn thấy Khải Hùng vẻ mặt rắn rỏi mặc dù đang tuổi thơ ngây, lòng cũng hơi yên. Cụ tắt đèn và cùng đi với Khải Hùng ra bờ sông. Bốn bề vắng lặng không nghe một tiếng động nào. Chỉ xa xa tiếng gà eo óc và thỉnh thoảng giọt sương rơi nhẹ trên cành.

Cụ Thiên Hộ giúp Khải Hùng bỏ đồ vật xuống một chiếc thuyền chài nhỏ của Khải Hòa cột ở ven bờ, rồi kéo đứa bé vào lòng, cụ bảo :

- Ta không biết sau này có gặp lại con đặng không nhưng cầu trời phù hộ cho con trên bước đường phiêu lưu. Lúc năm sáu tuổi con đã biết nghiệp bơi chèo thì bây giờ con phải tự chèo mà tìm nẻo sống. Mười hai tuổi đầu vẫn là tuổi ăn chơi của những con nhà khá giả. Song chính vì ta nghèo mà chúng ta phải nỗ lực nhiều hơn, phải tập dạn dày, tu luyện sớm hơn để mà đối phó với đời. Con có biết đời là gì không ? Là cơm ăn áo mặc hàng ngày, là sự đối xử hàng ngày của ta đối với xã hội. Đời còn là bao nhiêu tình thương, bao nhiêu tai họa, bao nhiêu nổi giận, bao nhiêu hạnh phúc. Phải tập đón, tập đỡ, nhưng cuối cùng phải giữ lấy phần thắng cho mình. Đời là một con thủy quái, con à. Không ai thắng được thủy quái một mình, mà phải hợp sức cùng những kẻ khác đồng chung chí hướng với mình. Ông cụ xoa đầu thằng bé, nghẹn ngào nói tiếp :

- Bây giờ con đi về đâu, chắc con cũng không biết nữa. Hãy chèo cho mạnh ra khỏi vùng này trước khi mặt trời lên cao. Ta chỉ cho con hai nẻo mà đi : đến ngã ba sông, nếu rẽ bên trái thì năm ngày sau con sẽ đến bến Liêu giang. Đến đây bán thuyền lên bộ, đi chân độ hai mươi ngày sẽ đến kinh thành. Tại đây, hỏi thăm nhà của An Dương Hầu rồi tìm người mẹ của con tên là Bạch Tuệ trong số kẻ hầu người hạ. Mẹ con xa con từ khi con mới một, hai tuổi đầu, bây giờ hai bên khó mà nhìn nhận nhau được. Khốn nỗi, cha mẹ của con lấy nhau cũng không có chút gì là tặng vật để làm kỷ niệm mà đem đối chiếu làm tin. Nhưng được con giống cha con như đúc. Nếu mẹ con còn lòng thương con, thì ắt sẽ nhận biết được dễ dàng. Cái kỷ niệm quí nhất vẫn là tình thương. Nếu quên con rồi thì có bao nhiêu kỷ vật cũng là vô ích. Nhưng nếu con không đi về ngã trái để tìm mẹ con thì con có thể chèo về ngã phải và đi khoảng hai mươi ngày thì sẽ đến bến Hồi giang. Lên bến, con tìm hỏi Trịnh Thiết Hào, chủ tiệm rượu. Con tự giới thiệu là cháu của ta, và để làm tin con đưa cái ống điếu này. Đây là cái điếu bằng gỗ thạch đàn mà Thiết Hào đã đẽo gọt cho ta từ khi bọn ta còn sống ở vùng rừng núi Thập Sơn. Đưa xem, rồi con giữ lấy, đó là chút vật của ta gởi gấm cho con để nhắc cho con nhớ mấy điều này...

Cụ Thiên Hộ !ấy ra một ống điếu cũ đen bóng, trao cho Khải Hùng rồi tiếp :

- Mỗi khi nhìn chiếc điếu này con hãy nhớ lấy ba điều ta dặn đinh ninh : Một là đừng quên cái gốc của mình. Cha con làm ruộng, chày lưới, sống đời chất phác, hiền lành, chứ không phải kẻ cao sang quyền quí. Con có nghèo nàn hay sung sướng cũng đừng quên cái gốc mình mà học lấy những thói ti tiện của người sa đọa hay thói hống hách của kẻ làm nên. Hai là nhớ rằng thủy quái là loài hung ác lớn lao như thế mà cha con vẫn đâm nó chết được. Cái khó bao nhiêu ta vẫn làm được, nhưng cha con không chỉ giết được nó một mình, còn phải nhiều người góp sức. Phải tin tưởng ở tài năng của mình nhưng đừng tưởng rằng chỉ có riêng mình mới làm nổi được việc lớn, mà phải biết hợp sức với kẻ khác. Ba là hãy vì lợi ích nhiều người mà gắng sức mình. Đừng nghĩ khư khư lấy quyền lợi mình mà chết. Giết con thủy quái là để cứu mình mà cũng cứu người. Muốn tránh ích kỷ thì hãy đem cái lo âu của ta góp vào cái lo âu của thiên hạ. Thôi, còn trẻ mà ta nói chuyện dông dài của người lớn tuổi, e con không sao nhớ được. Chỉ ghi tóm tắt ba điều trong trí nhớ con : Đừng quên nguồn gốc, hãy tự tin minh, đừng ngại gian khổ, ham lợi riêng thì mới mong nên người có giá trị được. Rồi đây cuộc đời sẽ dạy dỗ, khuyên răn hay trừng trị con, chứ ta không sao nói hết. Những chân trời xa lạ sẽ đón chờ con, những ngày đói rét đau khổ, đọa đày sẽ đe dọa con. Con đi với nỗi khổ nhưng còn niềm tin ở tương tai. Ta sẽ ở lại trong cảnh bình thường, héo hắt và chết giữa cảnh đợi chờ. Ngày mai trên bờ sông Dương Châu sẽ thêm một ngôi miếu nữa để thờ thủy quái ! Thực là mai mỉa, kẻ trừ mối hại thì bị trừng phạt kẻ gieo tai biến thì được tôn quí.

Khải Hùng không sao nén được nước mắt nhưng chẳng dám khóc to sợ phiền lòng cụ Thiên Hộ, vội vàng quay đầu nói trong nghẹn ngào :

- Cháu xin ghi xương tạc dạ những lời cụ dạy. Dù trôi nổi đến nơi nào cháu cũng quay về quê hương nơi có nấm mồ cha cháu và hình bóng cụ.

Nói xong, Khải Hùng cúi lạy cụ Thiên Hộ. Cụ đưa nó xuống thuyền, mở dây dỏng và trao cho nó mái chèo :

- Nhớ giữ mình, cháu đi phen nầy là để lập thân.

Giọng cụ như lạc hẳn đi. Từ giữa sông lờ mờ trong sương khuya vẳng lại giọng nói yếu đuối của thằng bé :

- Chúc cụ ở lại mạnh giỏi…

Rồi đất trời trở lại quang cảnh im lìm, vắng vẻ. Xa xa có tiếng chèo khua nước, nhưng nhỏ nhẹ làm sao, khiến cụ già ngồi trên bờ sông xót xa bùi ngùi, tưởng như tất cả những niềm lưu luyến trên cõi đời này đều lần lượt bỏ mình mà đi, để mình trơ trọi giữa chốn hoang vu. Nhưng khi cặp mắt già nua không còn nhìn thấy gì hết trong sương khuya, khi đôi tai mệt nhọc không còn nghe thấy gì nữa trên sông vắng, cụ già đứng lên, quay lại xóm thôn đang ngủ im lìm và tìm lại nỗi niềm yên tĩnh trong tâm.

Khải Hùng cúi rạp mình trên chiếc thuyền nhỏ cố hết sức chèo, đôi tay thoăn thoắt đẩy làn nước lạnh của mặt sông về sớm còn quyện hơi sương dày đặc. Thỉnh thoảng nó mới ngóc đầu lên nhìn vội hai bên bờ sông để thấy cảnh vật dần dần đổi khác, những xóm nhà nhỏ biến dần nhường chỗ cho những đồi cỏ, những rừng cây, những lau lách um tùm thỉnh thoảng điểm một mái lều rách nát của kẻ phá rẫy khai hoang nghèo khổ. Đến khi cánh tay rã rời, Khải Hùng biết mình đi đã khá xa nhưng vẫn không dám dừng lại nghỉ ngơi, cố hết sức chèo. Mồ hôi tuôn ra khắp người dầm dề như tắm và trong sự mệt mỏi cùng cực, tấm lòng đứa bé tự nhiên xúc động cho cảnh ngộ minh, bỗng tuôn nước mắt dàn dụa hòa lẫn mồ hôi ướt đầm cả mặt. Lâu lắm nó mới cố nén được lòng, tự nhủ : "Bây giờ ta chỉ còn trông cậy mỗi nơi ta, để cho lòng mình yếu mềm là tự giết chết". Rồi gạt nước mắt, nó lại tiếp tục bơi chèo, cắn chặt răng lại, vận dụng bao nhiêu sức lực trong người quạt nước, đẩy thuyền tiến tới. Mặt trời từ từ hiện lên sáng tỏa phương đông, chiếu xuống rạng rỡ trên mặt sông rộng, phản chiếu vào mặt Khải Hùng làm cho lóe sáng khiến tay chèo của nó càng thấy khó khăn. Nó như một người mù lòa cắm cúi mà chèo, chỉ biết còn chèo là còn sống, và chỉ có tự tay điều khiển con thuyền của mình thì mới đi đến bến bờ tương lai. Càng trưa, nắng càng gay gắt, tay chân rã rời, mồ hôi ướt đẫm, Khải Hùng vẫn không nản lòng chèo chống. Lấy chiếc nón rách đội trên mái đầu, Khải Hùng vừa vuốt mồ hôi trên mặt vừa đẩy mái chèo. Trong đầu thơ trẻ của nó tự nảy ra những ý nghĩ : "Có lẽ cuộc đời mỗi người cũng như là kẻ chèo thuyền trên sông. Ai chịu nỗ lực thì đến bờ mong đợi, ai kém tay chèo thì cứ lững lờ trôi giạt vào chốn phiêu lưu vô định. Bao nhiêu sóng nước chập chờn chỉ chực nhận chìm chiếc thuyền cũng là hình ảnh bao nhiêu cảnh khổ ở đời chỉ muốn xô ngã con người. Không, ta phải lướt tới, vượt qua, nhớ lời dạy bảo của cụ Thiên Hộ."

Đến lúc mặt trời lên đến đỉnh đầu thì Khải Hùng thấp thoáng thấy trước mặt có nhiều ghe thuyền tấp nập và con sông rẽ làm hai nhánh. Nó biết đi khá xa rồi, đã đến nơi ngã ba sông, một nẻo bên trái dẫn về Liêu Giang đưa đến kinh thành, một nẻo bên mặt dẫn về Hồi Giang, chỗ ở của Trịnh thiết Hào.

Chèo gần tới ngã rẽ, tấm lòng đứa bé sinh ra hồi hộp khác thường. Đi về ngã nào ? Nó thấy phân vân khôn xiết. Tìm đến người mẹ lạc loài không sao rõ được hình dung, hay tìm đến người bạn già của cụ Thiên Hộ mà nó chưa hề gặp mặt ? Tự nhiên cánh tay bơi chèo của nó yếu dần và nó băn khoăn tự bảo : "Về đâu bây giờ cũng là đi vào cuộc đời vô định. Nhưng đã đến lúc phải chọn một đường. Tùy sự chọn lựa mà đời của mình cũng sẽ thay đổi". Nó lại lờ mờ thấy rằng con người đứng ở chỗ ngã ba sông cũng như đứng trước nẻo đời nhiều hướng. Nó bị bắt buộc phải quyết định sự chọn lựa quá sớm nhưng làm thế nào. Nếu cứ chần chờ lưỡng lự ở đây thì bọn nha lại cho thuyền đuổi kịp bắt mà giết đi thì uổng bao nhiêu công sức chèo chống suốt nửa ngày trời. Nó nhắm mắt lại, cố gắng hình dung hai con đường đi trước mặt. Con đường tìm mẹ sao mà mơ hồ quá sức. Ở nơi người mẹ xa xôi không có chút tình liên lạc từ khi nó còn bé bỏng đến giờ, nó không tìm thấy một sự thiết tha nào cả mà khi nghĩ đến lại cảm thấy lòng sợ hãi, e dè. Rủi nàng Bạch Tuệ đã qua đời rồi thì ở giữa chốn kinh thành xa lạ nó sẽ dựa cậy vào ai ? Trong lòng Khải Hùng đôi khi cũng thấy khát thèm hình ảnh gần gũi âu yếm của một người mẹ như sự ước muốn được nỗi chở che của mọi đứa trẻ cô độc, nhưng nó tự biết cuộc đời của mình phải chịu những sự thiếu thốn lớn lao khó được đền bù và đành âm thầm nén lại những nỗi băn khoăn tình cảm. Nó lại quen sống ở nơi ruộng đồng, sông rạch, hình ảnh lờ mờ của chốn thị thành náo động ngựa xe, theo nhiều miệng người thuật lại, khiến nó e ngại. Bởi vậy nó ngước về nẻo Hồi Giang, như thấy ở trước mắt mình hình ảnh hiên ngang của Trịnh Thiết Hào gần gũi thân mật chừng nào ! Nó tự nhủ : "Người ấy là bạn của cụ Thiên Hộ chắc phải hiền lành tử tế như cụ Thiên Hộ". Nó cúi xuống bọc áo của mình, bất giác thấy cái ống điếu thạch đàn, cầm lên, và sinh một niềm tin tưởng vô hạn…

Lập tức, Khải Hùng quay thuyền về nẻo Hồi Giang và chèo dần vào một khúc sông càng ngày càng hẹp tỏa bóng mát lạnh từ những lùm cây rậm rạp ở hai bên bờ. Nó thấy đói lả nhưng không dám ngừng nghỉ lại, vội lấy một ít cơm nguội của cụ Thiên Hộ gói cho ban sáng vừa nhai vừa chèo. Mặt trời ngã dần về Tây, bóng chiều tỏa xuống sau lưng, gió mát gờn gợn thổi nhẹ trên sông khiến cho Khải Hùng cảm thấy dễ chịu. Những sự mệt mỏi ban sáng như xoá tan dần, và nó nhận thấy hình như đã lướt được khó khăn trong lúc ban đầu.

Càng về chiều, giòng sông càng hẹp, gió càng thổi lạnh. Khải Hùng nghe hai bên bờ cây cối xạc xào và chim về tổ từng đàn tranh nhau chí chóe trên những ngọn cao. Đợi lúc giòng sông tắt nắng và khói sông tỏa lên từ từ mờ mịt, nó mới cố gắng chèo thêm một quãng khá xa để tìm một bến sông nào có thể nghỉ lại đêm nay để mai đi sớm. Đến một khúc hẹp, có gốc si già từ bờ nhô ra tỏa tàng lá rậm như một mái lều, Khải Hùng ghé thuyền vào nghỉ thì hoàng hôn đã phủ xuống con sông vắng những vạt bóng tối và sương mù dâng lên gần như dày đặc khắp cả mặt sông.

Vừa toan buộc thuyền vào gốc si già bỗng nhiên Khải Hùng nghe những tiếng kêu kỳ lạ vẳng lên. Tiếng kêu ban đầu giống như một tiếng mèo hoang ẩn trong hố nhưng dần dần tiếng khóc từng hồi của một trẻ thơ vẳng lên giữa mặt sông. Thoạt tiên, Khải Hùng cảm thấy ớn lạnh khắp cả xương sống. Giữa chốn hoang vu, trong đêm tăm tối mịt mờ sương lạnh, phải chăng đấy là những tiếng kêu khóc của những hồn ma lạc loài hiện lên để trêu ghẹo người lạc lối ? Mỗi lúc tiếng khóc nghe càng thảm thiết, dập dồn. Khải Hùng không phải là một đứa trẻ nhát gan. Nó từ nhỏ đã sống cuộc đời gian khổ, đêm hôm đã từng lặn lội mò cua, bắt cá nên không hề tin nhảm nhí những chuyện hoang đường vô lối về các hồn ma, bóng quỉ dọa người. Cái cảm giác sợ hãi ban đầu tan đi, nó định thần nghe kỹ và lòng cảm thấy xúc động không yên. "Chắc là một đứa trẻ con nhà ai lạc loài trôi nổi trên sông", nó tự bảo vậy. Rồi vội vàng quờ quạng chèo thuyền lướt trong sương dày hướng về tiếng khóc trên sông chèo đến. Càng đến gần, tiếng khóc càng rõ nhưng bây giờ chỉ còn là những tiếng gào khan trong một cổ họng sắp tắt. Trong bóng tối, Khải Hùng nhìn thấy lờ mờ gần thuyền có một mảng bè, trên đấy có một đứa trẻ độ chừng một tuổi tay chân bị bó chặt lại, trên mình phủ đầy những tã. Nó tháo dây, ôm đứa bé lên thuyền. Đứa bé được ẵm trong lòng, cảm thấy ấm áp, ngừng hẳn tiếng khóc. Nhân thấy lớp vải bọc quanh toàn là những món lụa là, hàng vải đắt tiền, nó nghĩ : "Chắc là con nhà khá giả bị sự rẻ rúng gì đây mà phải xô đuổi trôi giạt trên bè. Dù con của ai cũng là mạng sống, ta phải cứu nó".

Khải Hùng ôm đứa bé trong lòng suốt đêm để khỏi lạnh. Đứa bé thiếp đi từng chập, từng hồi và mỗi lúc tỉnh giấc lại khóc thét lên. Biết rằng nó đói, Khải Hùng phải lui cui bươi than ủ dưới lớp tro đặt trong chiếc nồi bể ở dưới lòng ghe để nhen lửa, thổi cơm.

Đứa bé có vẻ đói lắm nhưng ăn rất ít xem chừng như không quen dùng cơm muối bao giờ. Tuy vậy, ăn xong nó ngủ yên giấc và Khải Hùng cảm thấy từ khi có đứa bé bên mình nó không còn thấy cô độc nữa và giữa khúc sông vắng vẻ, bên những bờ bụi hoang vu, trong khoảng đêm dài thăm thẳm, Khải Hùng tìm được ít nhiều ấm cúng như tìm được một nơi nương tựa.

Mờ sáng, đứa bé khua động làm cho Khải Hùng choàng tỉnh. Nó nhìn rõ vẻ mặt hiền lành của một đứa con gái và thấy những vải tã bọc quanh, nó đoán chừng gia cảnh đứa bé cũng thuộc vào hàng khá giả. Nhưng Khải Hùng không thể suy đoán xa hơn vì đâu đứa nhỏ phải chịu ruồng bỏ như vậy, tuy trong đầu óc của nó lờ mờ nhận thấy cuộc đời vẫn còn lắm sự độc ác, lắm nỗi tàn nhẫn không sao lường được.

Suốt cả ngày hôm ấy, Khải Hùng chèo thuyền hăng hái hơn trước. Nó nghĩ rằng bây giờ nó còn phải lo cho một người khác nữa và nó càng không nên chểnh mảng phút giây. Đứa bé không còn khóc, nó nằm ở giữa thuyền, mở cặp mắt thao láo mà nhìn Khải Hùng. Nó độ năm sáu tháng nên đã biết chú ý đến mọi việc xảy ra quanh mình. Sau những giờ trôi nổi, bây giờ cảm thấy gần gũi một người lạ mặt, lại được đi trên chiếc thuyền bồng bềnh nó chỉ còn biết ngạc nhiên mà thôi. Thỉnh thoảng Khải Hùng dừng chèo quay lại và thấy con bé mỉm cười như đang chờ đợi một sự săn sóc. Nụ cười ngây thơ, bé bỏng làm cho Khải Hùng cảm động khiến nó quên cả nhọc mệt. Nó nhớ lại trước đây vẫn thường ước ao có một đứa em bất luận là trai hay gái để cùng vui vẻ nô đùa, để được trông nom săn sóc. Con người đều muốn nghiêng về kẻ khác, đều muốn san sớt lòng mình. Những ngày ở Mai Gia Trang nó vẫn quyến luyến với nhiều đứa trẻ trong xóm, Khải Hùng nhớ lại con bé Tiểu Thanh hiền lành ở bên bờ sông Dương Châu và nảy ý dùng cái tên ấy để gọi đứa em lưu lạc của mình. Mỗi khi nó kêu lên : "Tiểu Thanh ! Tiểu Thanh !" hoặc hỏi han một cách trìu mến : "Sao Tiểu Thanh không ngủ đi, hở ?", "Tiểu Thanh đã đói bụng chưa ?" thì con bé có vẻ ngơ ngác hết sức. Khải Hùng biết rằng đứa bé vẫn có một cái tên nào đấy nhưng cứ gọi là Tiểu Thanh rồi thời gian sau nó sẽ quen đi.

Con thuyền cứ thế lướt trên dòng sông như muốn kéo dài mãi mãi. Khải Hùng tuy bị bận rộn hơn trước nhưng thấy vui hơn. Khi mặt trời lên cao nó phải lấy chiếc nón tả tơi của mình che cho đứa bé và phơi đầu dưới nắng suốt ngày. Những lúc gặp mưa thình lình, Khải Hùng phải ôm đứa nhỏ vào lòng, lấy nón đỡ lấy chiều mưa tạt vào và đành chịu ướt. Lần đầu tiên Khải Hùng cảm thấy niềm vui phơi phới được lo cho kẻ khác, và sự thiệt thòi của mình được đền bù lại bằng những khoan khoái tinh thần khó tả.

Một hôm, Khải Hùng tỉnh giấc nhưng không sao ngồi dậy được. Nó thấy trong người bần thần, cổ họng khô cháy, hai bên thái dương hừng hực như bị lửa đốt. Biết rằng những ngày dầm mưa dãi nắng đã khiến cho mình bị ốm, nó cố gượng dậy nhiều lần nhưng không làm sao dậy nổi. Mãi đến khi mặt trời lên cao thiêu đốt gay gắt, mồ hôi nó tuôn ra dầm dề, bấy giờ nó mới cảm thấy nhẹ nhàng đôi chút. Nó gượng dậy cố chèo nhưng chỉ được một quãng đã thấy hai tay rã rời. Cuối cùng nó đưa thuyền vào bờ núp dưới một lùm cây sà trên mặt nước và cột thuyền để nghỉ. Suốt ngày Khải Hùng nằm thiếp đi, không biết gì đến chung quanh. Con bé Tiểu Thanh ngồi bên cạnh nó hoặc nằm xuống bên nó không dám kêu khóc một lời. Dường như con bé cũng thấy một sự khác thường xảy ra và đâm e ngại. Mãi đến lúc trời tối, Khải Hùng mới tỉnh cơn mê. Nó gượng dậy, ôm con bé vào lòng, vỗ về nó và thấy trong người hơi tỉnh nhưng đầu óc vẫn còn choáng váng. Mấy hôm nay không những chịu cảnh dãi dầu, Khải Hùng còn đồ ăn ít quá. Gạo khoai sắp hết và Khải Hùng không muốn cho Tiểu Thanh phải đói. Trong bóng đêm dày, phủ đặc cả sông, chợt Khải Hùng nhìn thấy xa xa, vào phía trong bờ có ánh lửa sáng chập chờn, Khải Hùng gượng dậy, lấy chiếc đãy vải hôm nào đã cột đứa bé vào bè cột chân nó vào khoang thuyền rồi bảo : "Tiểu Thanh ngồi đây, đừng có trườn xuống sông nhé ! Ta đi tìm người trong xóm rồi sẽ về ngay". Trong bóng đêm Khải Hùng như thấy đứa bé gật đầu. Nó đứng lên, loạng choạng leo các sườn dốc mấp mô và hướng về phía ngọn lửa, bước chân lảo đảo nhiều lần như muốn ngã quị. Khải Hùng phải đi khá lâu, qua nhiều bờ bụi và có cảm tưởng như mình đang lạc vào trong một quãng rừng hoang. Cuối cùng ánh lửa rõ dần và Khải Hùng đến một ngôi nhà sơ sài bên trong thấp thoáng có mấy bóng người đang ngồi chuyện vãn. Không dám bước vào, nó đứng nép dưới gốc một cây lớn sau nhà để nhìn.

Qua khung cửa liếp, Khải Hùng trông rõ ba người to lớn đang ngồi nói chuyện. Vẻ mặt người nào trông cũng hung hăng khác thường. Một người có bộ râu quai nón vụt đứng dậy, chống hai tay vào hông, đảo cặp mắt tròn xoe nhìn sang hai người kia rồi nói :

- Đợi gì ?

Người kia trả lời :

- Đợi ngày đả lôi đài, sau ngày lễ trung thu sắp đến. Thiết Hào tổ chức dịp này để khoe tài với anh hùng bốn phương, nhưng rồi hãy xem..

Và cười ha hả rất lớn gã tiếp :

- Hạ nó trước mặt mọi người để rửa mối nhục ngày nào cho nó biết tay. Ta cũng cần phải nhắc lại cho hai người biết ngón võ bí truyền mà ta dạy cho hai người khi lâm vào thế nguy khốn là ngón vô cùng lợi hại cần phải rèn luyện cho đến tuyệt kỹ mới mong xử dụng có kết quả được. Việc gì, trên đời cũng có hai mặt, ngón võ hại người càng độc thì cũng dễ bị người ta hại lại, nếu không cẩn thận đề phòng. Chỉ khi nào thấy mình yếu thế mới tạo sơ hở cho đối thủ xông vào để hạ ngã mình, rồi sau đó mới dùng nó được. Trước kia ta đã dạy cho bảy đứa đồ đệ mà sáu đứa bị giết chết vì đã nôn nóng xử dụng ngón này, ngoại trừ Triệu Nguyên sống được là nhờ nó chưa áp dụng ngón đó. Muốn cầm thanh gươm lớn thì phải có sức mạnh, muốn vượt đường xa thì phải dùng ngựa ký, tài năng, trí tuệ chưa đủ dùng ngón hiểm độc mà đã vội dùng thì càng mau chết mà thôi. Ta khuyên hai ngươi từ đây đến đấy, phải cố rèn luyện cho thực tinh thông ngón ấy. Cốt nhất là hồi bị đánh ngã xuống thì phải xoay được mình phóng cả hai chân vào ruột đối phương. Càng bị ngã mạnh thì càng đá mạnh, tất cả bí quyết là ở đấy. Nếu tạo sơ hở vụng về, đối phương không đánh ta ngã hoặc đánh ngã yếu, thế là hỏng hết. Giết được thằng Trịnh Thiết Hào phen này thì ta nắm quyền bá chủ Hồi giang, tha hồ ta cho bọn ngươi mặc sức hoành hành.

Một người vẻ mặt ít khắc khổ hơn và gầy gò hơn, từ nãy đến giờ chưa nói lời nào, cất tiếng hỏi :

- Nhưng huynh có chắc là Trịnh Thiết Hào giết nàng Hồng Diệp để hại huynh không ? Tôi vẫn còn ngờ vực lắm.

Người có bộ râu quai nón tỏ vẻ giận dữ, hét lên :

- Chứ đứa nào vào đấy nữa ? Tường nhà của Phạm Lang Trung trừ phi Trịnh Thiết Hào thì chẳng có một kẻ nào vào lọt. Lại còn cái cây thước sắt của nó gây nên án mạng chứ ai ? Ta thề một sống một chết với nó phen này.

Nói xong người này ngồi xuống, xem chừng nét mặt vẫn còn hầm hầm tức giận. Khải Hùng nín thở, lắng tai, ban đầu nghe nói đến Trịnh Thiết Hào thì hết sức ngạc nhiên nhưng sau cùng nghe xong câu nói của người râu quai nón mới nghĩ không thể là bạn của cụ Thiên Hộ mà chắc là một gã trộm cướp nào trùng danh trùng tánh đấy thôi. Đứng lâu, hơi mệt, Khải Hùng toan ngồi xuống chỗ gốc cây, bỗng thấy người râu quai nón vụt đứng dậy nhìn đăm đăm về phía cửa liếp ra dáng nghi hoặc. Bỗng gã rút nhanh thanh kiếm bên sườn, cau mặt :

- Quái, ta đánh hơi thấy người lạ gần đây.

Lập tức hai người kia cũng rút gươm đứng dậy. Khải Hùng khiếp hoảng, lại thêm sức yếu đã mấy hôm rồi nên ngã lăn ra trên đất. Ba người cùng bước ra ngoài và cúi xuống nhìn Khải Hùng một hồi rồi một người kéo nó dậy. Khải Hùng gần như ở trong tình trạng mê man không hay biết gì, mồm chỉ lảm nhảm nói lên những tiếng ú ớ rời rạc. Đưa Khải Hùng vào cạnh bếp lửa một lát, chờ tỉnh dậy, người râu quai nón bèn hỏi :

- Mày ở đâu đến đây ?

Rồi không đợi cho Khải Hùng trả lời người ấy quay sang hai người kia nói tiếp :

- Xem thằng bé này nó giống đứa con của thằng Phùng Siêu mà ta chọc cổ huyết hôm trước hay không ?

Người gầy hơn, vừa nhìn Khải Hùng từ đầu đến cuối vừa trả lời :

- Thằng này trông già dặn hơn nhiều nhưng ít thịt lắm.

Khải Hùng cố giữ bình tĩnh thuật lại hoàn cảnh của mình nhưng nói chệch đi là cha mẹ bị chết vì nghèo đói và không nhắc đến tên Trịnh Thiết Hào chỉ trình bày đi kiếm nơi sinh sống mả thôi.

Ba người ngồi nghe không nói gì. Bỗng người râu quai nón nói :

- Xem tướng mạo thằng này có thể dùng được. Mày ở đây trông nhà cho bọn tao, rồi tao sẽ lo ăn lo mặc cho mày.

Khải Hùng kể lại hoàn cảnh của bé Tiểu Thanh và một mực xin đi. Người kia bỗng cười phá lên :

- Chao ôi, một mạng chết đói của mày tự nuôi chưa xong lại còn đèo thêm một mạng nữa à ? Trông tướng mạo của mày là tướng mạo ăn cướp thế mà toan làm việc tu hành, kể cũng lạ đấy. Thôi được, mày về Hồi Giang thì mày cứ về. Đại Thường lấy cho nó một bao gạo và cho nó ít hoàn thuốc giải cảm để nó đi cho khuất mắt.

Khải Hùng nhận những vật cho, trong lòng run run cảm động. Nó tưởng phen này là không thoát chết nào ngờ được cứu sống, trong lòng ngơ ngác không hiểu vì sao. Khi lạy tạ quay ra được ít bước nó lại quay vào. Người trẻ hơn trong bọn hỏi :

- Thế nào ? Còn muốn gì nữa ? Chúng tao cũng không dư gạo hơn mày lắm đâu, đừng tưởng ở đây là kho lương thực.

Khải Hùng khép nép thưa :

- Quí ngài cho tôi bấy nhiêu cũng đã nhiều rồi. Tôi chỉ mong ngày sau có dịp sẽ trả ơn này. Xin quí ngài cho tôi biết tánh danh...

Cả ba người cùng cười. Người có râu quai nón nói :

- Nếu không có đứa nhỏ chờ mày dưới thuyền như lời mày nói thì nghe câu nói vừa rồi cũng đủ cho tao chọc tiết mày rồi. Đi đi, đồ khốn ! Bọn tao không quen được sự trả ơn theo lối của mày đã học. Bọn tao cũng không cần mày biết đến tánh danh.

Khai Hùng suy nghĩ rồi đánh bạo nói :

- Thế thì xin ngài cho tôi thêm chiếc nón rách.

Cả ba người cùng cười lớn và người có râu quai nón gật đầu :

- À, thà là mày nói thế nghe lọt tai hơn. Tao ghét những cái cung cách giả dối làm bộ nhớ ơn để mong kiếm chác thêm đôi điều lợi. Cho mày cái nón lành đây.

Và người ấy đưa chân khều từ dưới gầm giường một cái nón lá còn tốt, cầm lấy ném cho Khải Hùng.

Khải Hùng vừa quay ra vài bước thì thấy lố nhố một đám người hùng hổ xông vào. Nhìn kỹ thì họ ăn mặc theo lối sai nha ở chốn quyền môn. Một gã đi trước cầm thanh đao lớn hầm hầm bước tới, một gã theo sau kẹp bé Tiểu Thanh trong nách khiến cho con bé dẫy dụa kêu khóc kinh hoàng. Ba bốn người theo sau, kẻ cầm đuốc, người cầm đao, bừng bừng sát khí.

Khải Hùng hoảng kinh lùi lại, chạy vào trong lều.

Gã sai nha đứng trước cửa, chỉ Khải Hùng, quát vào :

- Mày có phải là Khải Hùng đó chăng ? Khai mau !

Khải Hùng chưa biết đối đáp thế nào thì người có râu quai nón, hét lên :

- Các ngươi là ai mà đêm hôm lại hùng hổ kéo đi vây bắt một đứa trẻ con ?

Gã sai nha đáp :

- Ta đây là Đề Hạt họ Liêu dưới quyền quan lệnh Dương Châu, được phái tróc nã thằng con của tên phiến loạn. Đến đây ta chỉ tìm thấy dưới thuyền có con bé này, chắc là em út của nó. Nhờ có ánh đuốc mà ta tìm đến được đây, chắc là nó tới cầu xin các ngươi ẩn náu. Nhưng con cái của đạo tặc là mầm phản loạn sau này có hại cho dân cần phải nhất luật diệt trừ.

Người râu quai nón bèn hỏi :

- Cha nó làm gì mà gọi là đạo tặc ?

Liêu Đề Hạt ấp úng rồi quát :

- Đạo tặc là đạo tặc chớ còn làm gì ? Các ngươi không phải là hạng có quyền tra vặn được ta. Nếu không muốn mang tội chứa chấp kẻ giặc thì nộp mạng nó cho sớm.

Người râu quai nón cười to rồi đáp :

- Này Liêu Đề Hạt, ngài có ba điều lầm lẫn. Thứ nhất là cái lầm lẫn đây là nhà của thường dân nên ngài ỷ quyền cậy thế mà nạt nộ người. Xin ngài nhớ cho đây là sào huyệt của bọn Bắc Sơn. Lầm lẫn thứ hai là ngài ngờ ta chứa chấp tên giặc. Thực ra nó chỉ lả một đứa trẻ đáng thương còn biết xót thương mạng người vô tội mà cứu trên sông, đến đây đói khát xin ăn khiến ta thương tình mà cấp gạo muối. Ba là ngài đã dùng lầm hai tiếng đạo tặc. Thế nào là đạo tặc, ngài có biết không ? Như thằng Lệnh Trấn Dương Châu ngồi cao bóc lột dân đen, ỷ quyền cậy thế hại người vô tội mới chính là đạo tặc đó. Và cả ngài đây cũng là một thứ đạo tặc chính hiệu vì đã a tòng phụ lực cho bọn gian ác công khai.

Liêu Đề Hạt khoa đao hét lớn :

- Phường giặc cướp lộng ngôn, coi chừng mất mạng.

Người râu quai đón cười to :

- Đừng chọc vào Tiêu Diện Hổ mà bị rơi đầu tức khắc.

Nghe mấy tiếng Tiêu Diện Hổ, Liêu Đề Hạt thất sắc nhưng vội trấn áp tinh thần kêu gọi thủ hạ :

- Hãy xông vào bắt trói hết bọn chúng cho ta.

Tên sai nha kẹp bé Tiểu Thanh vội ném đứa bé vào một bụi cây rồi rút đao cùng cả bọn áp tới. Diện Hổ quay lại bảo người gầy gò từ sớm đến giờ vẫn ngồi bó gối ở bên bếp lửa :

- Đại Thường ! Dành mấy cái mạng sâu dân mọt nước cho nhà ngươi đó.

Lập tức Đại Thường vụt dậy. Vừa lúc ấy Liêu Đề Hạt quạt đao chém tới. Đại Thường né tránh rồi nhanh như chớp phóng một đá vào ngay cánh tay họ Liêu khiến lưỡi đao bắn tung lên xà nhà. Lập tức Đại Thường hươi quyền nhảy đến chỉ trong vài hiệp đã nắm lấy họng họ Liêu và trước sự kinh ngạc của bọn sai nha, con người to lớn vạm vỡ của vị Đề Hạt đã bị gã Đại Thường ném tung lên không rồi đỡ lấy dùng làm khí giới nạp vào tấn công cả bọn nha thuộc. Bọn nha thuộc bắt buộc phải hươi đao chống đỡ và chém lên mình Đề Hạt không biết bao nhiêu là nhát. Liêu Đề Hạt bị nắm cứng ở trong tay Đại Thường chỉ biết kêu than thảm thiết. Đến lúc liệu bề không chống đối nổi, cả bọn nha thuộc cắm đầu chạy ra bờ sông thì gã Đại Thường vác xác Đề Hạt chạy theo, đợi cho cả bọn vừa đến đầu dốc vụt ném thật mạnh xác của Đề Hạt vào cả đám đông. Chỉ nghe tiếng "vút" và bọn nha thuộc bị đẩy văng tuốt ra ngoài mặt sông lõm bõm rơi xuống giữa dòng nước lạnh rồi bị vướng giày, vướng dép không sao bơi được vào bờ đành chết chìm hết cả lũ.

Đại Thường ngồi im trên bờ đợi cho mặt sông trở lại vắng lặng rồi mới thong thả quay vào. Bấy giờ Khải Hùng đã vào bụi cây vực bé Tiểu Thanh đem hơ bên lửa. Đại Thường cười gằn rồi nói :

- Cho chúng xuống chầu diêm vương cả rồi. Chỉ tại cái thằng nhỏ này mà ông không nghỉ yên được đêm nay.

Nói xong chạy lại nắm lấy cổ họng Khải Hùng. Nhưng Tiêu Diện Hổ vội bảo :

- Đại Thường tha tội cho nó. Một thằng bị giết phải là kẻ ác thì đằng còn sống phải là kẻ thiện. Giết luôn kẻ thiện thì còn kẻ ác đâu nữa. Trời xui đất khiến thằng bé con này gặp gỡ chúng ta cũng là đại phước cho nó. Từ nay, mày có thể cứ ruổi dong ngàn dặm cũng chẳng còn ai đuổi bắt mày đâu. Thôi cho chúng mầy được ngủ lại một đêm ấm áp, rồi mai cút đi cho sớm.

Gã Đại Thường và chàng trai trẻ lại lấy mảnh chiếu khoanh tròn bên lửa mà nằm, phút chốc đã nghe ngáy vang như sấm.

Chương 04

Sáng ngày hôm sau Khải Hùng thấy mình tỉnh hẳn nhờ hoàn thuốc giải cảm linh diệu lạ thường. Nhớ lại sự việc trong đêm vừa qua nó tưởng như vừa trải qua một giấc chiêm bao. Nó muốn cáo từ các vị ân nhân để lên đường nhưng nhìn chung quanh không thấy ai cả.

Nó nhận thấy những người mà nó vừa gặp tuy diện mạo hung dữ, ăn nói cộc cằn nhưng bản tâm rất quảng đại. Còn bọn sai nha và tên hiệu úy ăn mặc sang trọng, tướng mạo phốp pháp lại là một lũ gian ác chỉ chực hãm hại những người vô tội. Khải Hùng suy nghiệm và trí não đơn giản của nó bắt đầu nhận thấy cái bề ngoài có thể nhiều khi trái ngược hoàn toàn với cái bề trong và đó cũng là một dịp để nó tìm hiểu sau này trên đời.

Nhờ được ăn uống no đủ nên Khải Hùng chèo rất nhanh và mấy ngày sau, xa xa Khải Hùng nhìn thấy ghe thuyền lố nhố chen chúc ở một bến sông thấp thoáng có nhiều nóc nhà ẩn hiện. Khải Hùng ẵm Tiểu Thanh đưa cao lên khỏi đầu mình cho nó nhìn phía trước, rồi bảo :

- Hãy cười đi bé Thanh ơi ! Chúng ta đã đến nơi rồi.

Bé Thanh vẫy tay và nhoẻn miệng cười. Khải Hùng cảm thấy nôn nao một niềm vui, nhưng liền sau đó tự nhiên trong lòng cảm thấy buồn bã y như bắt đầu từ đây Khải Hùng mới thật xa lìa cảnh cũ, quê xưa, không có phương gì về lại để mà thăm viếng những kẻ quen thân, nhất là cụ già Thiên Hộ. Tự nhiên Khải Hùng chèo chầm chậm lại như muốn kéo dài cái cảnh lênh đênh trên một dòng sông đã thành quen thuộc.

Nó cúi xuống khỏi be thuyền uống một ngụm nước giữa dòng và tưởng như từ nơi Dương Châu xa khơi, cách trên hai mươi mấy ngày thuyền chạy, vẫn trôi đến đây làn nước quen thuộc ngọt ngào ý vị quê hương.

Khi đến bến, Khải Hùng nhận thấy có nhiều ngả sông rộng hơn chạy về lối khác, ghe thuyền đi lại khá nhiều và con sông nó vừa trải qua chỉ là một đường lối tắt trở về Dương Châu, xuyên qua những nẻo rừng núi hoang vu. Hỏi biết là bến Hồi giang, Khải Hùng cột thuyền nơi bến rồi ẵm Tiểu Thanh tìm nhà cụ Trịnh Thiết Hào. Chẳng mấy chốc tới một ngôi quán nhỏ ở cuối dãy phố lá và thấy một cụ già hình vóc to lớn, tướng mạo gân guốc đường bệ khác thường ngồi ở quầy hàng. Đoán chừng đấy là người mình mong gặp, Khải Hùng đặt Tiểu Thanh ngoài cửa khép nép tiến vào chào thưa rồi lễ phép trình bày cảnh ngộ của mình. Trịnh Thiết Hào - người già ấy - chăm chú ngồi nghe, đôi mày nhíu lại, phóng hai con mắt tuy đã già nua song còn sáng quắc vào mặt Khải Hùng, và khi Khải Hùng dứt lời lấy chiếc ống điếu ra khỏi túi áo thì ông chụp lấy đưa sát vào mặt ngắm kỹ và kêu to lên một cách vô cùng hỉ hả :

- Trời ơi ! ba mươi năm rồi ta mới gặp lại nó đây. Nó nhắc cho ta một quãng đời không bao giờ quên được. Cầm nó trong tay ta tưởng như đang đối diện với anh chàng Thiên Hộ và bao nhiêu kẻ khác. Hay lắm ! hay lắm ! ai ngờ lại còn có ngày gặp gỡ lại mầy !

Rồi ông đưa ống điếu lên săm soi, ngẫm nghĩ như nhìn một vật báu lạ nhất đời. Đoạn ông vừa gật gù vừa nói tiếp :

- Số là cái ống điếu này ta định tạc bằng đốt xương sống của thằng Hạng Lữ mà lại phải tạc bằng gỗ Thạch Đàn. Nhưng thôi, chắc mầy không sao biết được lai lịch của nó bởi vì mày còn nhỏ quá mà anh bạn già Thiên Hộ của tao không phải là người ưa nói đến chuyện của mình. Mầy đã đến đây thế là quí rồi, nhà ta rất nghèo, vợ chết, chỉ còn một đứa con gái muộn màng chưa biết giúp đỡ gì được. Cái quán này cũng khá đắt nhưng người ta uống chịu khá đông mà hết phân nửa số người uống chịu không bao giờ trả được một đồng nào. Xem mầy có thể giúp đỡ cho ta được lắm.

Khải Hùng vội trình bày hoàn cảnh Tiểu Thanh và xin được chăm nom săn sóc đến nó. Nghe xong, Thiết Hào phá lên cười lớn :

- Cũng lạ cho mầy ! Rõ là con cháu của anh Thiên Hộ có khác ! Người ta đã ném nó đi mầy lại lượm lấy nó rồi bắt ta phải phụ lực với mầy mà nuôi nó nữa thì kể cũng là phi lý lắm đó.

Ông dừng lời rồi lại cười, nói tiếp :

- Thôi được, họa vô đơn chí, cả hai đứa mầy cùng đến một lượt càng hay ! Thế cái con bé đâu rồi ?

Khải Hùng ra ngoài thấy con bé đang ngồi dựa vào vách lấy tay vọc đất bèn cúi xuống bồng vào đặt trước mặt cụ Thiết Hào. Cụ già ngắm nghía một lát hồi nói :

- Con bé này trông cũng khá đấy. Tiếc là nó còn nhỏ quá không biết là con cái nhà ai. Nếu nó nói được ra lời mà ta biết rõ cha mẹ của nó thì trong ba ngày ta sẽ lấy đầu bọn chúng đem về xem chơi cho biết mặt mũi quân nào mà lại tàn nhẫn đến thế.

Rồi quay vào trong, ông gọi :

- Yến Nhi đâu rồi ? Hãy ra bảo đây.

Từ trong, một cô gái độ chín tuổi, tóc để trái đào, nhanh nhẫu chạy ra, vòng tay cung kính, Thiết Hào bảo :

- Này, hãy ra mắt anh mầy, và giữ lấy em mầy. À, chú bé tên gì đây ?

Khải Hùng đáp :

- Cháu tên Khải Hùng còn em nhỏ này cháu xin gọi là Tiểu Thanh.

Yến Nhi cúi chào Khải Hùng rồi chạy lại bồng Tiểu Thanh. Thiết Hào nói :

- Đùng một cái mầy có cả anh, cả em mà không cần mất công chờ đợi gì cả. Thế mà có kẻ bảo ở đời không có những cái bất ngờ thì là ngốc thật. Thôi, chú bé vào trong nghỉ ngơi rồi ngày mai ta sẽ dạy công việc cho mà trông coi hàng quán.

*

Mờ sáng hôm sau, Khải Hùng vừa mới tỉnh dậy bỗng nghe có tiếng Thiết Hào sau nhà, vội vàng ngồi dậy chạy ra thì thấy ông già cởi trần để những bắp thịt rắn chắc đang giảng giải cho Yến Nhi đứng ở giữa sân mình mặc một bộ đồ chẽn màu đen, lưng thắt một giải lụa điều. Cụ Thiết Hào nói :

- Trong những lỗi lầm mà ta đã vạch để con sửa chữa, con phải chú ý điểm này : Người con gái không thua kém con trai mà còn có thể hơn hẳn con trai, nếu mình quyết tâm cầu tiến. Con nên nhớ rằng bất luận là trai hay gái, con người đều có một sức vô hạn, hễ biết phát triển thì càng cao xa không sao lường được cho đến tận cùng. Bây giờ con hãy tập "Hồ Điệp quyền" mười lượt, rồi ta sẽ chỉ dẫn tiếp cho con.

Thiết Hào nói xong, phất tay ra hiệu. Lập tức Yến Nhi nhảy tới một bước rồi lùi mình nhanh ba bước, xuống trung bình tấn, hai tay chuyển sang tả, đưa về hữu, đồng thời chân mặt đá lên và toàn bộ bắt đầu biến hóa mau lẹ, di chuyển linh hoạt trên sân y như một con bướm chập chờn trong nắng. Khải Hùng đứng nhìn sững sờ, nhiều khi tay chân vô tình bị lôi cuốn theo đà cử động của cô gái nhỏ, cũng vung vẫy một cách buồn cười.

Cụ Thiết Hào đứng yên không nhúc nhích, chăm chú nhìn theo nhưng không bỏ sót một mảy may điệu bộ nào của Yến Nhi và cứ mỗi lần cô gái thu người thấp xuống cho hai tay mềm dẻo uốn ra sau lưng, chuyển mình về bên trái như một con bướm thâu đôi cánh lại thì lập tức cụ Thiết Hào phất tay ra hiệu và Yến Nhi lại múa như cũ. Cứ thế đến lần thứ mười cụ mới vỗ tay, dậm chân, ra hiệu bảo ngừng. Yến Nhi dừng lại, buông xuôi hai tay thở dốc một cách vô cùng mệt nhọc. Cụ Thiết Hào bỗng quắc mắt, nạt lớn :

- Bớt thở lại ! Giữ lấy thần sắc của mình !

Yến Nhi vội nén hơi thở mạnh và cố giữ một vẻ bình thản. Cụ Thiết Hào nói dằn từng tiếng :

- Trừ khi mầy đã đuối sức gần chết, không liệu cách gì có thể sống được thì không phải nói làm gì, bất cứ lúc nào cũng nên giữ lấy thần sắc của mình, làm chủ khí lực của mình, không nên để lộ cho tâm não mình biết rằng mình đang nhọc mệt. Kẻ nào mới mệt đã vội thở mạnh, mới đau đã vội kêu rên thì đã đầu hàng sớm quá không thể nào chiến đấu được với ai cả. Cái sức mạnh căn bản là cái sức mạnh ngầm chứa bên trong, vô hình vô lượng, chứ không phải là cái sức lộ rõ rệt bên ngoài.

Ta xem con luyện tập hôm nay đã khá nhưng ba lần ta thấy con lui về thế thủ "Hồ Điệp phân hoa" hơi chậm và để hở bên sườn tay mặt. Liệu mà tập lại cho xong.

Đoạn ông cụ Thiết Hào xuống tấn, chuyển hết gân lực cho toàn thân nổi rõ những bắp thịt lớn vẫn còn rắn chắc như người trai trẻ, rồi đứng lên, bảo với Yến Nhi :

- Có ba cách hạ người : dùng sức để đánh người, dùng mưu để hại người, dùng thế để trị người. Riêng về đàn bà được phần uyển chuyển nhẹ nhàng nên dùng mưu, dùng thế thì lợi hơn nhiều. Thành thử ta cho con luyện sự mau lẹ là vì lẽ ấy. Kẻ nào dùng sức hạ người là hạng thấp kém bởi vì loài người khác với loài vật nhờ ở trí tuệ cho nên phải biết vận dụng trí tuệ của mình. Dùng trí thì có mưu có thế nhưng ta không dậy cho con dùng mưu vì là phương cách của một trí tuệ tầm thường không xứng với người võ nghệ chân chính. Trí tuệ cũng có hai mặt, mặt xấu và mặt tốt, có thể nói rằng dùng mưu là mặt xấu, dùng thế là mặt tốt vậy. Nhưng con phải nhớ rằng dù ta dạy cho con luyện thế ta vẫn không quên cho con luyện mưu và luyện sức để con hiểu rõ mà đề phòng, bởi vì trong đời, người ta quen dùng sức lực như phường súc vật, hay quen dùng các mưu mô như hạng tiểu nhân. Hơn nữa, trong các môn võ không có môn nào biệt lập hoàn toàn mà thực ra vẫn có tương quan chặt chẽ, do đó mưu vẫn giúp thế mau thành, sức vẫn giúp thế dễ đạt, điều này càng tập rồi con sẽ thấy.

Cụ Thiết Hào dừng lời, đưa tay chỉ lên đầu, lên ngực, xuống bụng rồi nói tiếp :

- Vì thế, quan trọng nhất là môn điểm huyệt. Phàm cơ thể con người muốn giữ vững sự sống phải nhờ ở nhiều năng lực, năng lực hô hấp của phổi, năng lực tuần hoàn của máu, năng lực thần kinh của óc, năng lực tiêu hóa của ruột. Mỗi năng lực đều có một điểm trung tâm là yếu điểm chính, và nhiều yếu điểm phụ. Đánh vào điểm trung tâm của bất cứ năng lực nào là đánh chết con người, đánh vào điểm phụ là làm cho con người tê liệt. Nhưng biết chỗ nào là huyệt chính, huyệt phụ, và làm cách nào để đánh cho trúng, đó là cả công trình. Nay con gần mười tuổi, phải tập năm năm liệu mới thành đạt. Từ nay cho đến cuối mùa này phải tập công phu sự mau lẹ bằng những môn võ đơn giản rồi sẽ học tập những môn công phu khó hơn nhiều. Thôi, hôm nay thế là tạm nghỉ được rồi.

Bỗng quay lại thấy Khải Hùng, cụ hỏi :

- Thế nào ? Dậy sớm vậy sao ? Con bé Tiểu Thanh có khóc đấy không ?

Khai Hùng thưa :

- Thưa cụ suốt đêm nó ngủ được yên, bây giờ vẫn chưa dậy ạ.

Cụ Thiết Hào bảo :

- Từ nay ta gọi con bằng cháu, con cứ gọi ta bằng bác, bác cháu nhà ta cũng thân mật lắm rồi. Cháu có thấy Yến Nhi luyện võ đấy chứ ?

Khải Hùng đáp :

- Thưa có. Thực là vô cùng đẹp mắt. Cháu chỉ mong sao từ nay được bác cho cháu theo Yến Nhi luyện tập.

Cụ Thiết Hào nói :

- Trông hình vóc và khí sắc của cháu rất tốt. Theo đuổi nghề này có thể thành công. Chắc anh bạn Thiên Hộ của ta khi đưa cháu đến đây cũng nhắm vào lẽ ấy.

Khải Hùng nhớ lại khi ra đi cụ Thiên Hộ không hề nói gì về Trịnh Thiết Hào là tay võ nghệ và suốt thời gian ở gần bên cụ Thiên Hộ. Khải Hùng chưa từng nghe nhắc đến những tay võ hiệp hoặc tỏ ra cụ có tài nghệ gì khác ngoài cái lòng tốt và sự khôn khéo trong cách đối xử. Cụ cũng không khuyên Khải Hùng về bến Hồi Giang mà chỉ vế ra trước mắt hai con đường, để tùy cho nó lựa chọn. Càng nghĩ nó càng thấy hành động của cụ Thiên Hộ thực là khó hiểu nhưng không dám trình bày sự thực về sự chọn đường của mình cho cụ Thiết Hào được rõ, ngại rằng sẽ vì thế mà bớt sốt sắng đối với mình chăng.

Bỗng cụ Thiết Hào hỏi :

- Cụ Thiên Hộ có nói gì về ta với cháu không ?

Khải Hùng đáp :

- Thưa không.

Cụ Thiết Hào lại hỏi :

- Thế cũng không hề nhắc đến những chuyện gì về ngày xưa chứ ?

Khải Hùng thưa :

- Vẫn không ạ.

Cụ Thiết Hào ra vẻ suy nghĩ rồi nói :

- Để ta sẽ nói qua cho cháu rõ ít nhiều về ta và cụ Thiên Hộ, dù cho cháu còn nhỏ quá không sao hiểu hết việc đời. Tuy vậy đã quyết dạy bảo cho cháu theo con đường võ nghệ mà không nói cho cháu biết sơ qua cuộc đời mà bọn ta đã từng trải thì cũng đáng tiếc.

Cụ Thiết Hào kể :

- Khi còn rất nhỏ, lúc ấy, ta còn cha mẹ và gia đình ta sống nghiệp thuyền chài. Một hôm gia đình ta đi đến Liêu Giang, nửa đường bị bọn cướp chận đánh. Cha ta là tay võ nghệ khá cao cường chẳng mấy chốc phá tan lũ cướp, nhận chìm cả lũ xuống sông. Tuy vậy em trai ta bị chúng giết chết, cho nên lòng ta không sao chịu được căm hờn, nhận thấy có một đứa nhỏ độ chừng một tuổi, có lẽ là con của bọn cướp ấy, bám vào mảnh ván loi ngoi trên sông, ta vội chèo đến nắm lấy rồi ném ra xa. Bỗng lúc ấy có chiếc ghe nhỏ trôi qua và một đứa bé trạc tuổi ta nhảy xuống vớt nó. Ta giận lắm bảo :

- Con của phường giặc cướp, cứu vớt làm gì.

Đứa trẻ kia đứng trên be thuyền của nó, ôm thằng bé vào lòng, nói sang :

- Trẻ thơ chưa mấy tuổi đầu, làm gì nên tội mà gán cho nó oan nghiệt của người lớn. Người ném thì ta lượm, ta đâu có giật lấy vật mà ngươi quí mến nâng niu.

Nói xong, cho thuyền đi. Ta rất tức giận, nhưng thấy đuối lý nên đành làm thinh. Sau này đến bến Liêu Giang, tình cờ ta gặp gỡ lại nó trong quán cơm và từ đấy cùng thân nhau. Đứa trẻ ấy là Thiên Hộ. Thiên Hộ khác hẳn với ta nhiều điểm về tính tình, song ta rất thích vì ta nóng nảy mà Thiên Hộ lại trầm tĩnh, ta thích dùng sức mà Thiên Hộ lại dùng trí. Có thể nói rằng những gì mà ta thiếu thốn về phần tinh thần thì đều có thể tìm thấy ở nơi Thiên Hộ.

Lúc gặp gỡ ta hỏi thăm đứa con của tên cướp thì Thiên Hộ bảo rằng đã gởi về cho một người thân thuộc không con, họ Lý, ở mạn Dương Châu để làm con nuôi. Nhớ chừng như Thiên Hộ đặt tên cho nó là Khải Hòa, lâu ngày rồi không biết trí não ta có lầm lẫn hay chăng, nhưng thôi việc ấy chẳng có gì quan hệ.

Khải Hùng lau nước mắt, cố nén cho lòng khỏi bị lôi cuốn theo dòng xúc động nhưng trong tâm não cứ lởn vởn cái hình ảnh cha mình ngày xưa phải sống một kiếp khổ sở rồi chết một cách oan ức nên lòng chẳng yên chút nào. Sau đó nghĩ lại, nhờ cụ Thiên Hộ mà Khải Hòa đã sống một đời lương thiện và giúp ích được cho nhiều người thì lòng nó cũng bớt khắc khoải. Khải Hùng nhớ đến trường hợp cứu vớt Tiểu Thanh lại càng cảm thấy an ủi vì mình đã xử sự hợp với ý nguyện của cụ Thiên Hộ.

Cụ Thiết Hào nói :

- Cháu nghĩ gì mà tư lự thế ? Ta với Thiên Hộ còn nhiều chuyện lắm, không sao kể hết. Sau ngày gặp gỡ ở Liêu Giang ấy ta còn tìm cách gặp gỡ nhiều lần khác nữa và càng ngày càng thân nhau hơn. Ðến khi cha mẹ qua đời, ta tìm đến Thiên Hộ lúc ấy cũng mồ côi, rủ đi lập nghiệp. Ban đầu ra chốn kinh kỳ, chúng ta cũng gặp lắm sự vất vả nhưng cả hai cùng thấy rằng ở đấy không phải là nơi có thể xây dựng sự nghiệp lâu dài. Bắt đầu từ đó đã có sự chia rẽ. Ta thì chọn lấy con đường võ nghệ, cho rằng ở trong cuộc sống còn kẻ cường quyền áp bức và công lý chưa được phân minh thì chỉ có dụng võ là thượng sách. Còn Thiên Hộ thì cho rằng trau dồi tinh thần là chính, lấy sự đạo đức, lẽ phải mà khuyến thiện người bởi vì con người ai cũng hướng về những sự chính đáng như nước nghiêng về chỗ trũng. Ban đầu còn nhân nhượng nhau, sau càng ngày hai bên đối nghịch càng găng không ai chịu thua ai cả, rốt cuộc đưa đến một cuộc xô xát và cố nhiên là ta thắng thế vì ta có theo đuổi võ nghệ từ nhỏ. Kể ra cuộc xô xát này là do ý ta muốn vậy chứ Thiên Hộ bao giờ cũng tránh sự đụng chạm, xem như mọi sự tranh chấp bằng võ lực là xâm phạm đến giá trị con người.

Lúc ấy ta còn trẻ, còn hăng, chỉ cốt thủ thắng cho mình nhưng sau khi hạ xong Thiên Hộ ta lại thấy không yên lòng, hình như ta đã làm điều gì tội lỗi khi ta đánh bại một kẻ không dùng võ khí như ta. Từ đây, mỗi người mỗi ngả. Ta theo học về các môn võ nghệ, đi khắp đó đây, dùng tài võ nghệ định mở một lối đi trong đời, nhưng rốt cuộc ba lần đầu quân, ba lần bãi chức vì ta không sao chịu được những sự hành hạ của bọn cầm đầu bạo ngược hống hách. Cuối cùng ta giết một viên hiệu úy vì thấy y đã bốn lần đánh người dưới tay của y. Ta bị vào ngục, rồi ta vượt ngục, cải dạng đi khắp đó đây làm nên lắm sự ly kỳ, gây nên nhiều phen sóng gió, cuối cùng những kẻ đã chịu ơn đều xa lánh ta, ta phải trốn vào sống ở rừng núi Thập Sơn. Nơi đây ta lại được gặp anh bạn Thiên Hộ ngày xưa cũng là lang bạt kỳ hồ.

Cuộc tái ngộ này thực là đặc biệt. Đó là một đêm trăng sáng về thu, đất trời vằng vặc, ta vừa qua ngọn Nhất Sơn thì nghe đói lắm, ráng đi tới ngọn Nhị Sơn thì bụng cồn cào không bước được nữa. May thay ta nghe có tiếng chuông khua trong núi và ta lần mò đi đến thì gặp được một nếp chùa ẩn trong cây lá. Ta gõ cửa. Một vị sư già ra mở cửa. Ta nói rõ hoàn cảnh đói khổ của ta và nhà sư khép cánh cửa lại, bảo là liên tiếp nhiều năm trong hạt mất mùa, không còn vật thực để mà nuôi kẻ lở đường. Ta tức lắm, bảo rằng :

- Thế thì nhà ngươi sống bằng thứ gì ?

Vị sư bảo :

- Cố nhiên là ta phải sống bằng những thứ gì con người có thể ăn được. Nhưng ta còn phải giữ chùa, thờ Phật.

Ta rất quí trọng những kẻ tu hành, nhưng lúc quá đói lại nghe những lời nhẫn tâm như vậy ta không sao nén lòng giận, quát lên :

- Thế lòng thương người mà đấng Chí Tôn dạy bảo ngươi để ở đâu ?

Gã kia không nói rút đao vung lên thì nhanh tay ta đã rút gươm chém kẻ ác tăng đã dám xâm chiếm cửa chùa để mà mưu điều vị kỷ, rồi ta vơ vét những gì có thể ăn được còn giấu trong chùa để gói mang đi. Ta qua xong ngọn Tam Sơn thì dưới ánh trăng gặp một xác người. May thay trên ngực người ấy vẫn còn hơi ấm, ta cứu sống xong thì bỗng sửng sốt mà nhận ra rằng đó là người bạn cũ của ta, anh chàng Thiên Hộ. Thiên Hộ chết đói giữa đường sau khi đã gõ cửa chùa một cách tuyệt vọng. Ta cho Thiên Hộ ăn uống xong xuôi và bảo cho anh ta biết rằng chính ta là kẻ đã giết ác tăng để mà cướp lấy đồ ăn thì Thiên Hộ có ý không bằng lòng. Thiên Hộ buồn rầu kể cho ta nghe cuộc đời của anh ta sau bao nhiêu năm xa cách. Thiên Hộ làm đủ nghề, học tập khá nhiều kinh nghiệm, từng trải cũng lắm gian lao, nghiên cứu bao nhiêu kinh sách thánh hiền nhưng suốt cuộc đời vẫn không sống được an thân vì cứ thực hành điều phải, lẽ thiện nên bị hãm hại khốn đốn, phải trốn vào Thập Sơn ẩn náu qua ngày.

Hai kẻ mang hai lý tưởng khác nhau và cứ tưởng mình thắng thế bây giờ gặp nhau trong cái hoàn cảnh thất bại, túng đói, thật là hết sức thảm thương. Nhưng đời ta quen sử dụng sức lực, lưỡi gươm ta không lấy cảnh éo le làm điều phiền muộn, trái lại còn xem đó như là niềm vui được dịp thử thách. Thiên Hộ thì hay suy nghĩ xa xôi, băn khoăn nhiều nỗi, nên dễ sinh lòng hoài nghi yếm thế.

Sau đêm trăng ấy, chúng ta dìu nhau vào mạn Thập Sơn. Ở đây chúng ta đã sống những ngày gian khổ nhưng hết sức tự do. Ta thâu thập thủ hạ, kết nạp những người tài giỏi cùng với Thiên Hộ lập hội Thập Sơn. Anh hào mỗi ngày một đông, thanh thế càng tăng. Chúng ta kéo nhau đánh phá nhiều nơi, triệt hạ được những kẻ thù ngày xưa. Thằng Hạng Lữ tàn bạo đã từng hãm hại Thiên Hộ, xua đuổi Thiên Hộ vào bước đường cùng bị ta bêu đầu giữa chợ. Ta muốn lấy đốt xương sống của nó tạc cho Thiên Hộ một chiếc ống điếu nhưng Thiên Hộ nhất định từ chối, cho rằng cái hình ảnh quen thuộc cần giữ phải là hình ảnh của lòng yêu thương, của sự đùm bọc. Cây gỗ thạch đàn mà ta tạc cái ống điếu kỷ niệm là cây gỗ ở bên đường, trong đêm trăng sáng, nơi ta đã cứu Thiên Hộ, sau khi giết kẻ trộm cướp xâm chiếm chùa chiền.

Cuộc đời chúng ta kéo dài nhiều năm như thế cho đến lúc bị triều đình tấn công, lực lượng tan vỡ. Thiên Hộ và ta phải rời Thập Sơn mà đi. Bọn ta cùng nhận thấy rằng cứ đem vố nghệ, tài năng mà phục vụ cho những mối tư thù nhỏ nhen thì không bao giờ giải quyết được gì xứng đáng, nếu không nói là chỉ gây thêm oán thù mới một cách vô ích. Vả lại hùng cứ ở nơi núi cao rừng thẳm chỉ là xa lánh mọi người, cuộc sống biệt lập ra ngoài xã hội chỉ thỏa mãn tâm sự riêng tư mà không đem lại yên vui lâu dài cho tâm hồn được. Thiên Hộ sau đó lại càng bi quan và không còn tin tưởng gì nữa. Thiên Hộ cho rằng trong cuộc đời mà sức mạnh không thuộc về lẽ phải, chỉ là do kẻ nắm quyền chủ định thì không mong gì làm được điều tốt, điều thiện. Ta không chia sẻ ý kiến ấy. Kể ra ta chẳng hơn gì Thiên Hộ, và ta lại phải thất bại liên tiếp trong đời, nhưng ta tin rằng tinh thần chiến đấu mà còn thì con người vẫn đáng sống. Sau đó bọn ta chia tay. mỗi người một ngả. Thiên Hộ thì về Dương Châu sống âm thầm, khuất lấp bên cạnh những người nghèo khổ, tự mình xóa bỏ với mình dĩ vãng phiêu lưu đã cũ, còn ta thì về Hồi Giang mở quán rượu này để thỉnh thoảng mượn rượu và sự giao tiếp mà nhắc nhở rằng mình hãy còn sống ở trên đời.

Cụ Thiết Hào bỗng thở dài rồi nói :

- Kể ra cuộc đời không phải là không có những phút thật buồn nản nhưng cuối cùng rồi cũng phải vượt qua cái buồn nản ấy để sống bởi vì con người còn có trách nhiệm với mình và với đồng loại.

Và sau một lúc trầm ngâm, cụ Thiết Hào nói :

- Đưa cháu đến đây gặp ta, ý hẳn Thiên Hộ đã thay đổi rồi. Ông ta chắc phải nhận thấy ở đời chỉ có đạo đức nơi lòng chưa đủ, còn phải có được khả năng thực hiện cái đạo đức ấy mới là hợp lẽ.

Từ đấy Khải Hùng bắt đầu luyện tập võ nghệ. Phương pháp mà cụ Thiết Hào truyền dạy cho Khải Hùng khác hẳn với phương pháp cho Yến Nhi. Mỗi sáng Khải Hùng phải mang những bao cát nhỏ chạy nhiều vòng trên sân và nhảy trên những mô đất sắp rải rác. Cứ thế bao cát tăng dần và mô đất cũng đắp cao dần. Mỗi chiều cụ bắt Khải Hùng tập cách nhào lộn nhiều lần để cho cơ thể hoàn toàn mềm dẻo. Được nửa năm, Khải Hùng mới học các môn vố nghệ, lúc ấy Khải Hùng đã mang được những bao cát lớn nặng bằng hai người để vượt qua những chướng ngại khá cao. Theo Thiết Hào thì trong vòng ba năm nữa Khải Hùng có thể phi thân lên nóc nhà một cách dễ dàng nếu sự tập luyện không bị gián đoạn. Tất cả các cử động về từng môn được cụ Thiết Hào dạy bảo hết sức kỹ lưỡng và bất cứ một thế võ nào cụ cũng theo dõi sát sao, hướng dẫn chu đáo, kỳ cho đạt đến cái mức vô cùng tinh nhuệ. Trong các môn võ nghệ, quyền thuật, Khải Hùng tỏ ra có năng khiếu về môn độc kiếm bởi vì cánh tay từ bé đã quen sử dụng mái chèo.

Sang năm thứ hai thì trong mỗi ngày tập luyện vào trưa, tối và sáng, cụ Thiết Hào buộc Khải Hùng phải định tâm để tập trung thần lực.

Qua năm thứ ba thì Khải Hùng đã tiến bộ nhiều. Một hôm đang trông cửa hàng, bỗng có người lạ mặt đi vào, xăm xăm tiến tới giữa nhà kéo ghế ngồi xuống, đập bàn quát lớn :

- Rượu đâu ?

Khải Hùng hết sức khó chịu, cố dằn lòng, rót rượu đem lại. Gã kia vừa chạm môi vào chén đã vội kêu lên :

- Mày dám gọi cái thứ nước hôi tanh này là rượu kia à ?

Và gã cầm ngay chén rượu ném thẳng vào mặt Khải Hùng. Nhanh như chớp Khải Hùng đưa tay bắt lấy chén rượu và ném trả lại. Người khách né mình tránh khỏi và cất tiếng cả cười. Lập tức Khải Hùng nhảy đến, quát to :

- Nhà ngươi không được vô lễ.

Gã kia mỉm cười tỏ vẻ khinh bỉ trả lời :

- Chính mày mới là vô lễ nhãi con.

Rồi gã nhấn mạnh từng tiếng nói tiếp :

- Mày có ba lỗi mà không tự biết đó thôi. Một là mày đem nước lã hôi tanh mà dám gọi là rượu quí. Hai là mày dám ném chén vào mặt khách hàng. Ba là không biết kính nể, nhường nhịn một bậc tuổi tác vào hạng cha chú của mình.

Khải Hùng cả thẹn, toan liều một trận sống chết với người khách lạ, nhưng vừa tiến đến đã nghe cụ Thiết Hào nạt lớn :

- Dừng lại !

Quay lại, Khải Hùng thấy cụ Thiết Hào nghiêm sắc mặt, đứng ở lối thông ra ngã sau, có vẻ bất bình bèn vòng tay bước đến, cúi đầu tạ lỗi. Cụ Thiết Hào nói :

- Mày thực là nông nổi, vụng về. Luyện tập cho mày ba năm mà tưởng như mới rèn luyện ba ngày không bằng. Hãy xin lỗi khách đi nào.

Khải Hùng quay lại thì không thấy người khách ấy đâu cả.

Đang còn ngơ ngác, trong lòng bối rối thì cụ Thiết Hào đã lại nơi vò rượu lúc nãy rót ra trong chén, đưa vào tận mũi Khải Hùng, bảo rằng :

- Hãy nếm xem nào ? Có phải là rượu đó chăng ?

Khải Hùng bây giờ mới rõ không phải là rượu, hết sức phân vân, lúng túng.

Cụ Thiết Hào nói tiếp :

- Đây là ta mượn người quen thử con đấy thôi, một sự thử thách tầm thường đơn giản không so sánh kịp với những thử thách ngoài đời. Tuy vậy bấy nhiêu cũng đã tỏ rằng con có cái tư tưởng nguy hại là ỷ võ nghệ của mình. Người vố sĩ chân chính là kẻ đến bước cuối cùng mới cậy võ thuật. Trái lại, con thuộc vào những kẻ lợi dụng võ thuật ngay từ bước đầu. Thử hỏi nếu như võ thuật thất bại, thì con còn lại những gì ? Chắc chắn là còn sự chết mà thôi. Hầu hết những kẻ chưa đạt đến cái cao đạo của nghề võ đều xem nó như là lợi thế duy nhất của mình và vội vàng sử dụng, không chịu thấy rằng đó là sức phản ứng hoàn toàn thú tính không hợp với trình độ con người. Càng giỏi võ càng không nên cậy dựa vào sự dụng võ, mà nên chứng tỏ tinh thần lớn lao của mình. Chính vì có tin vào sức mình mới nuôi dưỡng được cái sắc thái trầm hùng bền vững.

Khải Hùng nghe nói, cúi đầu xấu hổ. Cụ Thiết Hào lại nói :

- Chỉ còn ít tháng nữa là đến mùa trăng sáng về thu. Cuộc đả lôi đài ta định từ ba năm trước phải hoãn lại vì một lý do chưa tiện nói ra, ngày nay có dịp tổ chức được rồi. Con phải luyện tập công phu để có dịp thử sức với nhiều người bản lĩnh.

Sau câu chuyện xảy ra với người khách lạ, Khải Hùng lấy làm lo nghĩ rất nhiều. Nhận thấy mình vẫn còn những ý tự phụ, ỷ tài một cách nông nổi, Khải Hùng quyết tâm sửa đổi. Lại nghe cuộc đả lôi đài sắp tổ chức, Khải Hùng lại càng cố gắng ngày đêm rèn luyện hết lòng. Một hôm, nằm nghĩ lại những điều nghe được mơ hồ trong đêm giữa rừng, khi đang chèo thuyền về bến Hồi Giang, cuộc đả lôi đài nghe nói từ ba năm trước, và những người tướng mạo hung dữ bàn về thế đánh lợi hại, về tranh đoạt uy thế của Trịnh Thiết Hào, về cây gậy sắt đã giết người, khiến cho Khải Hùng băn khoăn suy nghĩ, không sao ngủ được. Đang nằm thao thức, bỗng nghe có tiếng chân người đi nhẹ bên nhà. Khải Hùng định thần, lắng tai để dò động tỉnh. Nhờ lối luyện tập nhập thần công phu nên Khải Hùng nghe được những tiếng động rất xa và rất nhỏ. Một lát tiếng chân người nhẹ nhàng tiến về phía sau rồi vòng ra nơi phòng ngủ của Trịnh Thiết Hào. Khải Hùng ngồi dậy, vén nhẹ tấm rèm che cửa, nhìn theo thì thấy một bóng người to lớn đang thu hình lại, ép tai vào vách như đang nghe ngóng điều gì. Bỗng nhiên một chuỗi cười nổi lên sang sảng giữa đêm khuya khiến kẻ rình mò vội vàng đứng dậy, rút gươm thủ thế. Tiếng cười lại vang to hơn và Khải Hùng ngước nhìn thấy Trịnh Thiết Hào đang ngồi chồm hổm ở trên nóc nhà, khoanh tay trước gối, ngửa mặt mà cười dưới bóng trăng khuya.

Thiết Hào bỗng dừng tiếng cười, cất giọng đĩnh đạc :

- Ta chờ mày lâu lắm rồi, không ngờ chúng mày lại đến vào lúc nửa đêm khiến ta không sao ngủ cho yên giấc. Tiếc là công phu luyện tập của mày còn thiếu xót quá cho nên ta đã nghe bước chân của mày từ quán Đại Hưng ở ngoài đầu bến. Về bảo với gã chủ mày là từ lâu ta vẫn có ý đợi chờ nó đến nhưng nên tìm đến vào lúc ban ngày cho khỏi quấy rầy giấc ngủ kẻ khác.

Gã to lớn kia như không nén được sự căm tức, nhón chân nhảy lên mái nhà, lần này trông có vẻ nhẹ nhàng như chiếc lá rơi. Chống hai tay vào sườn, gã đứng trước mặt Thiết Hào, nói bằng một giọng khiêu khích :

- Giữa anh của ta và mày có một mối thù không đội trời chung, thế nào rồi cũng sống mái một trận. Nhưng ta đến đây không phải là để hành thích mày đâu vì ta không quen làm điều ám muội bao giờ. Nhân đi qua Hồi Giang ta ghé thăm mày giây lát rồi sẽ có ngày tái ngộ. Khi nào gặp lại hẳn hòi tao sẽ giao trả cho ngươi chiếc gậy dính máu từ mười năm trước.

Nói xong người ấy quay lưng lại, ung dung nhảy xuống sân nhẹ nhàng như trước và biến mất sau những căn phố đen dày trong đêm. Khải Hùng nhìn thấy Trịnh Thiết Hào, sau khi người kia đi rồi, có vẻ thẩn thờ và bây giờ đứng trước sân, cúi đầu suy nghĩ dáng điệu suy tư buồn bã. Thiết Hào đứng như thế rất lâu rồi mới vào nhà khiến Khải Hùng băn khoăn tự hỏi vì sao trước kia Thiết Hào có vẻ hiên ngang mà sau câu nói của người lạ mặt thì Thiết Hào đổi thay thái độ vô cùng đột ngột. Đầu óc còn thơ trẻ của Khải Hùng bắt đầu có mối nghi vấn, nó tò mò muốn tìm biết sự thật.

Qua những ngày sau, Thiết Hào có vẻ suy nghĩ hơn trước, cặp mắt vành môi thoáng những nét buồn. Trước kia đối với khách vào uống rượu, Thiết Hào vẫn thường nói chuyện vui vẻ, thì nay ngồi im nghĩ ngợi, chỉ ai hỏi mới khẽ nhếch mép, nghiêng đầu.

Một buổi sáng, giữa buổi đang mua bán ra vào tấp nập thì có một gã ăn xin từ ngoài bước vào. Gã ăn mặc rách rưới, bẩn thỉu, áo quần có vẻ mang nhiều gió bụi đường trường, tay trái chống gậy. Gã đội một cái nón lá cũ nát, vành che sụp xuống dưới mặt và vẫn để y như thế mà ngồi trong quán nên không ai trông rõ là trẻ hay già. Gã ngồi uống khá lâu một mình một chiếc bàn con và gần như không để ý đến ai nữa khác. Cứ thế gã uống từng chén nhỏ từ sáng cho đến trưa rồi mới từ từ đứng dậy, lần tay trong bọc, lấy một nén bạc để trên mặt bàn, gọi bảo Khải Hùng thối tiền. Khải Hùng bước đến, người ăn mày nhìn chăm chăm vào mặt nó một lúc lâu rồi giữ chặt đồng bạc trong tay không chịu bỏ ra. Một lát thấy Khải Hùng vẫn chắp tay đứng đợi có vẻ cung kính, gã bỏ đồng bạc trên bàn rồi lấy ngón tay nhận xuống. Đồng bạc từ từ lún sâu vào gỗ mỗi lúc mỗi sâu thêm và cuối cùng rơi tọt xuống dưới nền nhà.

Khi người ăn mày đi rồi, Khải Hùng vẫn chưa hết ngạc nhiên, đứng sững nhìn theo rất lâu, trong lòng lấy làm khâm phục. Lượm nén bạc đem vào cho cụ Thiết Hào, Khải Hùng trình bày trở lại đầu đuôi thì cụ Thiết Hào ra dáng suy nghĩ rồi hỏi :

- Gã ấy đi đã lâu chưa ?

Khải Hùng đáp :

- Thưa chắc đã đi xa rồi.

Cụ Thiết Hào nói :

- Thế nào rồi gã cũng sẽ trở lại. Nhưng con đừng quá ngạc nhiên như thế. Phương pháp vận dụng nội công, phát dương thần lực tuy rất công phu nhưng vốn dễ tập. Ngày xưa khi chưa học đến môn này ta cũng nể sợ như con, nhưng khi học xong mới biết không phải là điều rất khó. Ban đầu ta nghe kể chuyện nàng Lý Hồng Hoa đang ngồi đọc sách, bỗng có hai gã ăn mày vốn là hai tay đạo tặc cải trang tìm đến nhà nàng cốt để dò la. Nàng bèn đóng cửa lại và ném vung tiền xuyên qua tấm cửa lim dày rồi bảo : "Cho chúng mày đấy", khiến cho hai tên đạo tặc vội vã kiếm đường lẩn trốn, biết gặp phải tay không vừa. Nghe câu chuyện ấy ta rất say mê luyện tập, nhưng sau này ta nhận thấy rằng tùy mỗi sinh hoạt và cá tính con người mà phải luyện môn võ phù hợp thì mới mong đạt đến tuyệt đỉnh được. Môn vận dụng nội công, phát dương thần lực là ngón sở trường của phe đạo sĩ, không phải của những hạng người có một cuộc sống bất thường.

Khải Hùng hỏi :

- Vậy gặp tay có bản lĩnh như thế, đối phó thế nào ?

Cụ Thiết Hào cười đáp :

- Phải tùy đấy chứ. Nhưng nên nhớ rằng những hạng người luyện tập như thế thường kém nhanh nhẹn, kém đường quyền biến rất nhiều, chưa phải mười phần đáng sợ.

Hôm sau đang ngồi trong nhà, Khải Hùng bỗng nghe có tiếng léo xéo bên ngoài, bèn chạy ra thì thấy nhiều người xúm lại ở một ngôi quán trước mặt. Khải Hùng đến xem thì thấy người ăn xin hôm qua đang ngồi giữa quán, vẻ mặt bình tĩnh, trong khi chủ quán đang trợn mắt cố sức xô đẩy người ấy.

Chủ quán vừa thở, vừa nói :

- Nào, mày có đi khỏi đây không ?

Người ăn xin vẫn ngồi yên không nhúc nhích, ôn tồn trả lời :

- Ta nhất định chẳng đi đâu cả.

Chủ quán gào lên :

- Thế ngươi nhất định ngồi lì đây sao ?

Người kia cười lạt đáp :

- Quán ngươi đâu phải là ngôi chùa cứu độ để ta phải lưu luyến ngồi lì, nhưng hiện giờ ta còn đói bụng, ta cần phải ăn, nếu ngươi chưa dọn các thứ lên đây thì ta vẫn phải ngồi chờ.

Chủ quán nói :

- Hàng quán ở đây là nơi ăn uống của hạng người sang trọng mà nhà ngươi thì rách rưới, bẩn thỉu, ta không tiếp đãi được. Ta nhất quyết không dọn.

Người ăn mày nói :

- Vậy thì ta nhất định ngồi chờ.

Chủ quán cáu tiết xông vào nắm tay người ăn mày định kéo ra khỏi quán nhưng gã vẫn trơ trơ như đóng đinh vào ghế vậy. Lão chủ giận quá, kêu lên :

- Gia nhân đâu ! Phụ lực với ta tống cổ tên này ra khỏi cửa hàng xem nào !

Bốn năm gia nhân lực lưỡng chạy đến, a vào, kẻ nắm tay, người nắm chân, kẻ xô lưng, người đẩy ghế nhưng gã ăn mày vẫn ngồi vững như một tảng đá khổng lồ. Ai nấy đều trợn mắt, hơi thở phì phào nhưng vẫn không khiến cho gã nhúc nhích.

Chủ quán vừa nói vừa lau mồ hôi nhỏ giọt :

- Quái, tên lưu đãng này bị trời trồng ở đây rồi chắc ?

Bấy giờ gia nhân thấy thế kéo đến càng đông hè hụi cố sức xô đẩy nhưng vẫn không lay chuyển được gã ăn mày. Quang cảnh trông thực là kỳ lạ và buồn cười. Một lát, bọn gia nhân thẩy đều kinh ngạc và nhìn trân trân vào kẻ ăn mày không dám đẩy nữa. Chủ quán nói :

- Thế là cả lũ chúng mày chịu thua một tên bị gậy rách rưới gầy gò này sao ? Xông vào !

Mọi người vẫn cứ đứng yên, đưa mắt nhìn nhau rồi nhìn kẻ ăn mày. Gã vẫn ngồi tự nhiên, nét mặt không chút đổi thay như đang tư lự việc gì.

Chủ quán lại thét lên :

- Thực là một lũ ăn hại ! Xông vào ! Xông vào !

Nhưng chẳng một ai nhúc nhích. Giữa lúc ấy có tiếng xô mạnh chiếc ghế ở cuối phòng và một giọng oang oang cất lên :

- Hãy đứng cả lên, xem nào !

Mọi người quay lại và thấy một người to lớn ăn mặc rất sang, áo trắng dạ vàng thêu hoa xanh, thắt lưng bằng nhiễu hồng, đầu chiết khăn gấm màu hồ thủy, lưng đeo một thanh kiếm dài vỏ bạc sáng choang. Người này ung dung tiến đến đám đông, vẻ mặt hồng hào chất rượu, đưa tay vẹt cả lớp người qua hai bên rồi tới trước mặt gã ăn xin, chống tay vào sườn, nhíu mắt, xệch môi, gã gật chiếc đầu nói bằng một giọng khinh bỉ :

- Tên hành khất này định giở trò khốn nạn gì đây ?

Người ăn mày liếc nhìn gã to lớn rồi quay mặt sang nơi khác.

Gã kia tức giận, hét lên :

- Mày nhất định không nói đấy chứ ?

Và tiếp liền theo câu nói gã tống một thoi vào mặt người ăn mày. Nhưng bàn tay gã như chạm phải sắt đá, co rút trở lại vội vàng và gã không nén được tiếng kêu kinh hoàng. Lập tức, gã lùi lại, rút kiếm ra khỏi vỏ. Người ăn mày bây giờ mới ngước nhìn gã và cười lạt, bảo rằng :

- Bây giờ đến lượt ta nhắc lại câu hỏi của mày vừa rồi : "Thế mày định giở trò khốn nạn gì đây ?"

Gã to lớn lăm lăm thanh kiếm trong tay, nói bằng một giọng hằn học :

- Mày đã đem cái dơ bẩn của mày phá rối nơi đây rồi lại giở trò tà thuật để khoe bản lĩnh của mình. Ta phải trừng trị mày để làm gương cho kẻ khác.

Gã ăn mày bỗng cất tiếng cười rồi đáp bằng một giọng khinh bạc :

- Khá khen cho ngươi đã có tấm lòng hào hiệp những muốn răn dạy người đời. Nhưng mà rất tiếc nhà ngươi cũng quá nôn nóng cho nên nói điều nghĩa khí không nhằm phải chỗ. Ta chỉ là một kẻ nghèo nàn thì làm sao có được quần áo sang trọng như ngươí mà bảo đừng mang những miếng vải bố rách rưới dơ bẩn này được ? Con người ta ăn mặc phải tùy theo điều kiện của mình, không thể vì muốn tỏ ra sang trọng mà ta phải đi giết người, cướp của để được cao sang ! Còn quán này lập ra là để buôn bán với mọi kẻ có tiền. Ta đây có tiền, ta không ăn chịu, lẽ nào lại không muốn bán cho ta ? Hơn nữa, ai ngồi bàn nấy, ta dù rách rưới tanh hôi nhưng ta đâu có đem cái dơ bẩn của ta mà dí vào mắt các ngươi ? Ta bảo cho nhà ngươi biết điều này : ta chẳng phá phách một ai, cũng chẳng giở trò tà thuật. Ta chỉ ngồi yên đợi thức ăn có thế mà thôi, khôn hồn cho những hạng nào vô lễ xâm phạm đến ta ! Lần thứ nhất ta còn tha thứ, nhưng lần thứ hai ta quyết không dung.

Lời nói rắn rỏi của gã ăn mày vang lên trong căn phòng rộng khiến cho mọi người im lặng. Khi người ấy dứt câu ai nấy đều cảm thấy cái vô lý của người chủ quán cũng như của gã to lớn. Nhưng gã này nhất định không nhận thấy cái vô lý của mình, cho nên sấn tới và vung kiếm lên. Nhưng... xoảng ! một cái bát sứ từ nơi quầy hàng ném lại rồi giọng nói của Khải Hùng cất lên :

- Đồ hèn nhát ! Gây sự với một kẻ gầy ốm hơn mình tay không khí giới mà lại vung kiếm múa dao không thấy làm nhục sao ?

Gã to lớn kinh hoàng nhưng cũng quay lại trợn mắt hỏi :

- Đứa nào đấy ? Có giỏi thì ra đây ?

Lập tức một cái bát thứ hai ném trúng mặt gã, máu mũi tuôn ra lênh láng. Người ăn mày ung dung đứng dậy, nói lớn :

- Thôi ta không muốn làm phiền đến nhiều người, để ta đi cho khuất mắt các ngươi. Nhưng chủ quán nên nhớ cho điều này : "Từ đây về sau đừng có giở giọng khinh kẻ rách rưới mà có phen tính mạng khó toàn".

Rồi người ăn mày từ từ đi ra. Mọi người dàn cả hai bên nhường bước. Gã cúi đầu, bước đi lặng lẽ như không mảy may chú ý chung quanh.

Khải Hùng lẽo đẽo theo sau và thấy gã ra khỏi xóm tiến vào một vùng đá sỏi hoang vu. Khải Hùng bèn cố đi theo xem gã về đâu cho biết. Đi được một đỗi thì thấy mất hút bóng gã, vội vàng cố sức chạy theo lại thấy gã đang lững thững trước mặt. Cứ thế một lát thì gã lại biến mất và Khải Hùng lại phải bương bả theo gót hết sức nhọc nhằn. Trông dáng gã đi có vẻ thong thả tự nhiên nhưng Khải Hùng chạy đến bao nhiêu cũng chẳng tới gần cho được. Cuối cùng, khi đã thở dốc nhọc mệt, Khải Hùng đã toan bỏ cuộc trở về, thì thấy người ăn mày dừng lại trước một tòa cổ miếu hoang phế nằm dưới một gốc si già. Người ăn mày đứng trầm ngâm một lát, cúi nhìn xuống đất. Khải Hùng chạy đến núp sau một bụi gai lớn để tâm theo dõi thì thấy có manh chiếu nhỏ và một bọc gạo đổ tung ở trên nền gạch long lở, rêu phong. Ngước nhìn vào trong cửa miếu đóng kỹ có tiếng ngáy vang như sấm đưa ra.

Người ăn mày thong thả cúi nhặt một viên sỏi nhỏ, dang tay ném vào trong. Viên sỏi lướt vào như một phi đạn xoi lủng cánh cửa và lọt vào miếu gây nên những tiếng loảng xoảng bên trong như sự đổ vỡ của nhiều chén bát. Tiếng ngáy bỗng dứt. Giây lát cánh cửa xịch mở, một người hiện ra, râu ria xồm xoàm, vẻ mặt như còn ngái ngủ nói bằng một giọng khàn khàn :

- Định phá giấc ngủ của ta phải không ?

Người ăn mày nói :

- Chiếm chỗ của người, rồi lại ném cả đồ đạc ra ngoài như thế này đây, lại còn lên giọng trịch thượng, vậy là thế nào ?

Người kia nhếch môi như để mỉm cười, máy động chòm râu rậm rạp rồi thong thả đáp :

- Đây là chỗ của thần thánh, đâu phải là chỗ của ngươi ! Hơn nữa, ta không muốn làm người giữ của cho bất cứ kẻ nào, chẳng lẽ ta phải ngồi ôm bọc gạo và manh chiếu rách của ngươi mà ngủ hay sao ? Lại thêm từ xưa đến nay ta vốn quý trọng giấc ngủ của mình, sợ ngươi trở về lục lọi đồ đạc rồi quấy rầy, cho nên ta ném ra ngoài là có ý tốt cho ta và cho ngươi, ngươi còn muốn khiếu nại điều gì ?

Người ăn mày ôn tồn nói :

- Ta nghe đất Hồi Giang này là đất anh hùng, thế mà cái phận ăn mày của ta vào quán thì người ta không cho ngồi, vào miếu thì người ta đoạt chỗ ngủ, biết làm thế nào ? Nhưng thôi, nhà ngươi nằm ngủ xét ra có lẽ nhiều rồi, nhường lại cho ta một buổi.

Gã râu xồm cười khẩy một tiếng rồi đáp :

- Ta không phải là người ở cái đất này. Nghe nói Hồi Giang có đả lôi đài, bốn phương kéo đến, ta cũng muốn một nơi trọ để chờ, nhưng tiếc không có, phải mượn cái miếu này thôi.

Người ăn mày nói :

- Ngươi không biết rằng phàm khách giang hồ mã thượng đều tôn trọng quyền ưu tiên đấy sao ? Ta rất buồn lòng phải nhắc nhở ngươi những điều vụn vặt như thế.

Gã râu xồm đáp :

- Quyền ưu tiên là quyền của kẻ mạnh chứ không phải của người đến trước.

Người ăn mày nói :

- Thế nghĩa ngươi là kẻ mạnh, phải không ?

Gã râu xồm lạnh lùng trả lời :

- Chắc thế.

Lập tức người ăn mày ném chiếc nón lá tả tơi xuống đất để lộ một khuôn mặt gầy gò, hốc hác, ngẩng đầu lên, nói :

- Ta vì đói bụng mà mệt và buồn ngủ lắm rồi, nhưng cũng cố gắng trả lời cho ngươi thấy rằng điều làm chắc của người chưa phải là điều làm chắc của ta.

Gã râu xồm rời khung cửa, khoan thai bước ra, cúi xuống bệ gạch ven thềm, dùng hai ngón tay rút từ trong khối dày đặc một viên gạch lớn, dễ dàng như người rút một chiếc đũa trong ống. Đoạn tiến tới gần người ăn mày gã ta đưa hai bàn tay bóp vụn viên gạch như người vò lấy chất bột ủ mềm. Rồi như để thách thức gã ném cả mớ bột gạch vào mặt đối thủ. Nhưng người ăn mày gầy gò vẫn đứng yên, chuyển vận luồng hơi trong ngực lép kẹp thổi phù một cái nghe như là ngọn gió lốc ào qua. Tất cả đám bột gạch bị tạt trở lại trùm hết người gã râu xồm khiến gã loạng choạng ngã lùi, khắp người phủ đầy một màu nâu đỏ. Sau khi trấn tỉnh lại được, gã râu xồm hung hăng nhảy đến phóng mạnh một đá quật ngang vào mình gã ăn mày nhưng người này nhẹ nhàng lách khỏi rồi lanh như chớp phóng trả một đá giữa ngực đối thủ. Gã râu xồm chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi nhào ngửa trên nền gạch.

Người ăn mày cười lạt nói :

- Thế thì kẻ mạnh hơn sẽ được ngủ trong miếu vậy.

Rồi cúi xuống lượm manh chiếu và hốt gạo vào bọc. Đi được ít bước, thì người ăn mày bỗng quay lại phía bụi cây, chỗ núp của Khải Hùng, truyền bảo :

- Thằng nhỏ về đi để cho ta ngủ yên lành. Nếu không nghĩ cái tinh thần sốt sắng của mày đã ném vỡ hai cái bát của chủ quán thì có lẽ ta trừng phạt từ lâu cái sự tò mò tọc mạch của mày. Còn gã râu xồm thì hãy nằm đấy, bao giờ ngủ xong ta sẽ nhường miếu lại cho.

Nói xong, người ấy lững thững vào miếu, đóng ập cửa lại.

Xem tiếp chương 5 & 6