Lửa Dậy Trời Xuân

Minh Đăng xuất bản - 1972

Chương 1 & 2

Chương 3 & 4

                                                       Chương 5 & 6 (hết)

Nguồn: ĐÈN BIỂN sưu tầm & đánh máy

----------------------

Thực hiện eBook: Nguyễn Hữu Minh

MOBI

EPUB

Chương 1

 

 

Ai bảo cứ hễ giàu là sướng và nghèo thì khổ ? Hoà không tin vậy. Bằng cớ là nó thấy thằng Tâm, bạn thân của nó, con nhà giàu thật sự, giàu ghê gớm, giàu nhất trong số những nhà giàu mà nó được biết, cứ luôn miệng kêu khổ không ngừng.

 

Ngay cả Hoà, nó cũng tin là bạn mình khổ thật chứ không phải giả vờ. Kể ra, thoạt nghe qua người ta khó mà tin được, thì vẫn… xưa nay ai người ta cũng nghe, cũng nói tiếng nghèo đi kèm bên tiếng khổ : nghèo khổ ! Chứ có ai mà lại đi nói ngược đời giàu khổ bao giờ ?

 

Nhưng mà sự thật vẫn là sự thật, không sai suyển đi đâu được. Thằng Tâm khổ lắm, có thể nói nó là đứa trẻ khổ nhất mà Hoà được biết, cũng như chuyện Hoà biết nhà Tâm giàu có nhất vậy.

 

Trước hết, Hoà biết bạn nó rất khổ về chuyện ăn mặc – nói vậy cho xuôi tai chớ thật ra không có chuyện ăn ở đây, mà là chuyện mặc thôi. Vâng ! Tâm vẫn điên đầu về chuyện này và thường thổ lộ tâm tình với bạn là nó khổ sở ra sao. Nó khổ điên vì có nhiều quần áo quá ; nào quần áo mặc đi học, nào quần áo mặc đi chơi, nào quần áo mặc lúc đi lễ nhà thờ, nào quần áo mặc vào dịp nhà có chuyện trọng thể (chẳng hạn như tiệc tùng, tiếp tân mà nhà nó thì tiệc tùng, tiếp tân không ngớt) hay đám cưới các anh chị nó. Tâm còn kể rằng mấy năm trước, hễ đến khi ăn, nó phải mặc một thứ áo khoác riêng, nhưng điều này thì quá sức tưởng tượng của Hoà, nên Hoà không tin. Cho đến khi Tâm tức đến chảy nước mắt ra vì bị bạn cho là nói dóc, giơ tay thề, Hoà mới hết nghi ngờ.

 

Tâm vẫn nhìn các bạn cùng trường và cùng lớp của nó bằng đôi mắt thèm thuồng ao ước. Bởi quần áo nó quá sang, nó phải giữ gìn cẩn thận, giờ ra chơi cũng như giờ học, không được tự do chạy nhảy, leo trèo như các bạn. Tâm đứng đâu đứng yên, ngồi đâu ngồi thẳng chỉ những nơm nớp sợ nhầu nát bờ ly quần, nếp áo thì về nhà bị la rầy về tội ăn mặc không đúng “biên tơ nuy”. Có trời mới biết được biên tơ nuy là cái quái quỉ gì, riêng đối với Tâm thì ba tiếng đó rất là đáng ghét, đáng sợ, đầy đe doạ.

 

Mặc dù vậy, một lần nọ, Tâm ta quên phắt cái bổn phận phải “biên tơ nuy” của mình đi, lăm le nhập bọn với tụi thằng Hoà. Tức thì thằng bạn thân nhất của nó (thằng Hoà) lôi nó về với bổn phận liền, không do dự :

 

- Thôi ! Đứng coi tụi tao chơi cũng vui rồi, đừng bày đặt…

 

Hoà coi vậy chớ khá tế nhị, nó không bao giờ muốn nói trắng ra sợ làm bạn buồn lòng, song đâu phải tất cả bạn bè đều tốt bụng như Hoà, cho nên trong đám đông có tiếng cười khung khúc và tiếng nói cất cao :

 

- Ông đừng nhập vô đây chi, lỡ rách áo, trầy da, tụi nghèo thêm… mệt !

 

Hoà gắt thằng vừa cất tiếng trêu Tâm :

 

- Thôi đi Sử, chọc tức nó làm chi ? Bộ nó không phải là bạn của mình sao chớ ?

 

- Ha ! Binh hả ? Binh nhà giàu hả ? Nịnh hả ? Chầu rìa hả ?

 

Hoà nghe mặt mình bừng nóng, mắt mình bừng nóng, nó sừng sộ :

 

- Nói ai nịnh ? Nói ai chầu rìa ? Đồ chó ! Muốn ăn thoi hở ?

 

- Được ! Nhào vô chơi ! Coi đứa nào ăn…

 

Thế là trong một nháy mắt, một pha đấm đá gay cấn xảy ra, trên sức tưởng tượng của Tâm. Thằng bé đa cảm bưng mặt khóc rấm rức. Nó bị cái mà các nhà trí thức (giả và thật) kêu là “mặc cảm tội lỗi” giày vò hành hạ. Nó biết chính nó là nguyên nhân cuộc bạo động. Sân trường trống rỗng mấy góc kia, đám đông tụ tập lại một góc, góc mà Hoà và Sử đang quần nhau. Tiếng cổ võ reo hò, tiếng vỗ tay náo động cả sân trường, bụi tung mù mịt, át cả tiếng khóc của Tâm.

 

Tâm không ngờ rằng câu chuyện đó lại có lợi cho nó : tuy Hoà mất đi vài giọt máu mũi và rách hết một ống tay áo, song kể từ đấy tình bạn giữa hai đứa thắm thiết hơn lên. Đặc biệt hơn nữa, từ đó trở đi, tuyệt nhiên không một đứa nào dám nho nhoe trêu chọc Tâm, nghĩa là trêu câu nặng nặng, còn những lời châm chích nhẹ thì cứ tiếp tục như thường…

 

*

 

Một hôm cậu học trò con nhà giàu, cậu học trò vẫn khổ tâm mỗi khi vô ý vương một chút mực ở ống quần, lai áo, coi như phạm một trọng tội đó, thỏ thẻ hỏi bạn :

 

- Tối ngủ Hoà có thay áo không ?

 

Thay áo quần trước khi ngủ ? Chà ! Bộ nó tưởng mình là con ông Hoàng chắc ? Hoà nghĩ thầm chứ chưa trả lời, Tâm tưởng Hoà chưa nghe rõ, hỏi lại :

 

- Tối ngủ Hoà có thay áo quần không ?

 

Bởi theo ý Tâm đó là một việc bắt buộc, mà bắt buộc thì là không vui, là phải làm, mà hễ có tiếng “phải” ở đâu thì cái khổ theo liền ở đó, không sai. Hoà cười khẩy, đáp bằng giọng tự tin :

 

- Không ! Không thay, thay làm chi, mệt !

 

Tâm ngạc nhiên :

 

- Thiệt không ? Như vậy mày bận luôn áo quần này ngủ hả ? (gục gặc đầu ra dáng người hiểu biết) chà, dơ chết !

 

Hoà làm bộ ta đây cũng là một con người vệ sinh :

 

- Trời ơi ! Mày khi tao quá ! Ai lại bận áo quần dơ mà ngủ bao giờ ? Đi học cả ngày bụi bặm, lấm lem (cu cậu đỏ mặt lên ấp úng) ai thèm bận…

 

Tâm sốt ruột, hỏi dồn :

 

- Ủa, mày nói không thay, không bận áo quần này, vậy thì…

 

Hoà lấy lại bình tĩnh, đáp gọn :

 

- Trời nóng, tao chỉ bận quần đùi mà ngủ thôi !

 

Nhìn vào mặt bạn, Hoà ngờ ngợ hỏi lại :

 

- Mày lạ lắm hở ? Bộ mày chưa khi nào bận quần đùi mà ngủ hết chắc ?

 

- Trời ơi ! Sướng quá ! Tao muốn bận quần đùi mà ngủ lắm chớ mà không được đâu, mẹ tao la.

 

Lại một lần Hoà đến nhà bạn chơi. Tâm lôi Hoà lên phòng nó, điệu bộ bí mật y như là có điều gì quan trọng lắm (nhân cha mẹ Tâm đi vắng chớ có hai ông bà ở nhà thì cho kẹo Hoà cũng không vô). Miệng Tâm liến thoắng :

 

- Mau ! Có cái này hay lắm. Mau lên coi, Hoà !

 

Hai đứa vừa thở vừa kéo nhau lên lầu. Tâm tiếp :

 

- Hoà, nói thiệt đi ! Bộ mày chưa bao giờ bận đồ ngủ hết, phải không ?

 

- Chưa, rồi sao không ? Không tin hả ?

 

Hoà trả lời bạn, hơi tức vì Tâm tỏ vẻ nghi ngờ lời mình. Tâm tươi tỉnh nói :

 

- Vậy thì tao đưa mầy một bộ, bận coi chơi, hay lắm. Bận cho biết.

 

Đoạn nhanh nhẹn mở tủ, du bạn lại trước mặt kính, lôi ra bộ quần áo ngủ bằng hàng trắng có sọc xanh, miệng lia lịa :

 

- Bận vô coi chơi, đi ! Nếu mày ưng…

 

Trời đất ơi ! Quần áo ngủ ! Từ thuở cha sinh mẹ đẻ cho đến nay Hoà nào có biết hình thù bộ áo ngủ ra làm sao đâu ? Nhà nghèo làm gì có chuyện may thứ áo quần chỉ dành cho mỗi việc : bận trong lúc đi ngủ ? Tuy vậy, Hoà cũng làm theo lời bạn. Chỗ bạn bè con trai với nhau, không xấu hổ gì, Hoà ta cứ tự tiện tuột phăng ra, vất bộ áo quần của mình lên ghế bên bàn học của Tâm, mặc bộ đồ ngủ vào. Tâm đứng yên, lặng lẽ nhìn bạn. Xong xuôi rồi, Hoà nhìn vào gương thấy mình kỳ cục làm sao : y tựa trái dưa gang, một trái dưa gang biết di động ! Lúng ta lúng túng, Hoà đỏ mặt cởi ra trong lúc bạn thì xuýt xoa khen :

 

- Trời ơi ! Hoà bận coi… hay lắm, được lắm !

 

Hoà đâm cáu, gạt :

 

- Hay con khỉ ! Y như trái dưa gang mà kêu “hay” nỗi gì ? Dóc…

 

- Không phải dóc đâu, tao nói thiệt đó. Mày ưng không ?

 

- Hỏi chi vậy ?

 

- Mày ưng thì lấy đi, lấy về bận chơi, tao có nhiều, không sao. (Tâm chợt nhớ đến chuyện bạn vì ra tay hào hiệp bênh mình mà bị chảy máu mũi và rách áo nên giọng nồng nhiệt hơn) lấy một bộ bận đi, Hoà !

 

- Thôi, thôi… -- Hoà dẫy nẩy như đỉa phải vôi – Thôi ! Không bận đâu.

 

Tâm thật thà tiếp :

 

- Mày sợ ba má tao biết hả ? Không sao đâu, tao có nhiều lắm, ba má không…

 

Tuy cảm động trước lòng tốt của bạn, song chỉ cái lúng túng vướng víu ban nãy cũng đủ làm Hoà mất cảm tình với bộ áo quần rồi. Huống chi nghĩ đến chuyện tốn xà phòng Hoà lại ngán hơn. Đó là chưa kể mình phải tự tay giặt lấy khi nào mẹ hay chị vắng nhà, bận việc. Thôi, đánh cái quần đùi giản dị, tiện lợi bao nhiêu ?

 

Ừ, phải chi Tâm cho bạn cái quần đùi còn quí hơn, được việc hơn. Nhưng mà Hoà không thể nói toạc ra như vậy, kỳ quá. Mình cũng biết giữ thể diện của mình chớ ! Còn Tâm, không bao giờ có ý nghĩ cho bạn cái quần đùi, như vậy là khinh bạn quá. Nghĩ coi, ai lại nói :

 

- Hoà, tao cho mày cái quần đùi, nghe ? Tao có nhiều…

 

Bộ bạn mình nghèo tới nỗi không sắm được cái quần đùi sao ? Còn tặng nhau áo quần ngủ là chuyện khác, không ngại gì, không thương tổn gì đến tình bạn hết.

 

Thấy Hoà từ chối, Tâm hơi phật ý. Tuy nhiên, vốn tính hiền lành Tâm không muốn làm mất lòng bạn nên chỉ buồn thầm thôi, không nói ra.

 

Nghe Hoà khen mình có nhiều quần áo đẹp, Tâm nhăn nhó :

 

- Có nhiều thêm khổ, sướng ích chi đâu ?

 

Hoà trố mắt nhìn Tâm, tưởng là Tâm nói chơi, song khi nhìn kỹ mặt bạn, Hoà hiểu ngay là Tâm nói thật. Bấy giờ Tâm mới trình bày cặn kẽ nỗi khổ của mình : phải giữ gìn quần áo ra sao ? Đi học về phải thay ra sao ? Tối ngủ thay ra sao ? Mùa nắng mặc thứ gì ? Mùa lạnh mặc thứ gì ? Lạnh vừa mặc áo lót thứ gì ? Lạnh nhiều mặc áo lót thứ gì ? Nghe chối cả tai.

 

Sau cùng, trầm ngâm một giây, Tâm thêm để bạn đừng buồn lắm về tình cảnh mình :

 

- Coi vậy chớ tao cũng còn đỡ, không đến nỗi khổ quá như chị Bạch Tuyết, chỉ khổ gấp mấy tao, Hoà ơi !

 

Bạch Tuyết ! Nghe tên đó Hoà bật cười – không nén được dù nó cố nén – vì chị Tâm, chị có cái tên hay ho đó lại là một cô gái đen thủi, đen thui, đen cậy, đen kịt đi kìa, trời hỡi ! (Phải, Hoà không có hân hạnh cầm đến bút lông, song Hoà thừa biết đi rằng bạch là trắng, tuyết là trắng như tuyết, mà Bạch Tuyết gì lại đen thui ?) Tuy nhiên Hoà cũng biết lịch sự, giữ ý tứ, không có cười to, cười mím mím thôi. Ai ngờ trông thấy bạn cười, Tâm ta sừng sộ lên :

 

- Mày cười cái gì ? Bộ ai thèm nói láo sao ? Chị Bạch Tuyết khổ thiệt đó. Đứa nào nói láo, xe cán liền…

 

Hoà chồm tới, bịt miệng bạn :

 

- Thôi, đừng thề, tao tin mà. Có điều tao không hiểu chỉ khổ cái gì ? Tao thấy chỉ chơi không…

 

- Vậy mới kỳ. Mày mà thấy chỉ đứng trước tủ áo của chỉ, chọn cái này, lựa cái kia, bận thử cái nọ, mặc vô rồi cởi ra, mặc cái khác, chắt lưỡi cởi ra nữa… kêu trời trách đất, nhăn nhó, hầm hừ… mày mới thông cảm, mới biết chỉ khổ hơn tao.

 

- Chắc gì ?

 

- Sao không chắc ? Tao thấy bộ dạng chỉ là tao biết vì đôi khi tao cũng giống y như chỉ, với lại, không khổ sao chỉ kêu “Khổ quá ! Khổ quá !” hoài mỗi lần sắp mặc áo đi đâu ?

 

- Chỉ còn nói gì nữa không ?

 

Hoà làm một cuộc phỏng vấn tốc hành. Tâm cao giọng :

 

- Có chớ : chỉ nói vầy nữa : “Kỳ ghê, kỳ hết sức, cái nào khi treo coi cũng ngộ cũng hay mà khi bận vô thì xấu đui, xấu điếc. Kỳ ghê, sao vậy trời ?” Đó, mày coi, tội chỉ chớ, Hoà ? (Tâm nhìn bạn mong Hoà biểu đồng tình) phải không ?

 

- Ừ ! Tội nghiệp thiệt !

 

- Mà có cái tao cũng ghét chỉ -- Tâm tiếp – là vầy : miệng thì kêu khổ mà cứ tiếp tục may thêm không ngừng. Tao thì trái lại, không ưng may mà cứ bị bắt phải may thêm.

 

*

 

Kể từ ngày đó, Hoà không bao giờ còn cảm thấy buồn tủi về nỗi mình ít áo quần. Trái lại, nó thấy mình quả là có phước. Coi thằng Tâm kia : nó có bao giờ được cái hân hạnh mặc quần đùi đi chơi không, ngủ không ? Lúc nào cũng bơi lội trong trái dưa gang. Lúc nào cũng vướng víu, khi thì chật chội trong bộ âu phục, nịt niết hẳn hoi, khi thì lụng thụng trong bộ áo quần ngủ thùng thình, lượt thượt y như ông cụ già ! Đi học, ăn bận như trẻ kkhác vào dịp lễ lạc hay ngày tết không bằng. Đôi khi Hoà vẩn vơ tự hỏi : “Sao người ta bày đặt may đồ ngủ có sọc làm chi ?” và rất muốn hỏi Tâm nhưng vốn tế nhị, sợ khơi dậy nỗi khổ tâm của bạn, nên cố nén tò mò xuống.

 

Tâm hay đau ốm bất ngờ. Theo lời nó kể lại thì Hoà hiểu rằng nó không có lỗi gì trong chuyện đau ốm cả. Tại cha mẹ nó mà ra. Bằng giọng rầu rầu, nó thêm :

 

- Cậu tao nói vậy đó, Hoà ơi ! Cậu tao là Huynh trưởng hướng đạo, mày ơi ! Cậu tao đã năn nỉ nhiều lần để cha mẹ cho tao vô hướng đạo mà…

 

- Đơn nào cũng bị bác hết, phải không ? – Hoà khôi hài tỉnh.

 

- Ủa, sao mày biết ?

 

- Sao lại không ? Nghe giọng nói mày là biết liền.

 

Tâm hậm hực :

 

- Tao vô hướng đạo thì có tốn kém gì đâu mà cha mẹ tao tiếc, không cho ?

 

- Đó là ông bà thương mày lắm, sợ mày dang nắng nhiều, nắng nó chiếu cố tới mày thì sổ mũi, nhức đầu, hiểu chưa ?

 

Tâm móc túi lấy khăn tay hỉ mũi, giọng càng tấm tức :

 

- Rồi không đi Hướng đạo sao tao sổ mũi hoài đây ? Nói nghe coi ? Hả ?

 

Tâm chợt thấy mình vô lý, ngừng lại, bởi Hoà đâu có trách nhiệm gì về chuyện mình sổ mũi ? Sao lại thua một đằng, gỡ một nẻo ?

 

 Hoà rất hiểu nỗi bực mình của bạn, an ủi cầm chừng :

 

- Thôi đừng buồn. Biết chừng nữa ông bà nghĩ lại, sẽ cho mày đi Hướng đạo cũng nên.

 

Tâm đi học bằng xe hơi nhà, có anh tài xế của sở lái, đưa nó đến trường. Cu cậu khổ sở, bứt rứt ngồi lọt thỏm trong lòng nệm xe, buồn bã giương mắt nhìn lũ bạn kéo đi lũ lượt dưới đường, phía trước hay bên hông, sát cạnh mình. Thật là : “tuy trong gang tấc mà xa nghìn trùng !” Chao ơi là xa cách, là lẻ loi !

 

Thình lình, trông thấy nó (thường thì cả lũ ít để ý, mải bận trò chuyện) nhiều đứa tinh nghịch giở mũ ra tung lên trời, hét toáng :

 

- Cụ đi kinh lý, bay ơi ! Cụ đi kinh lý ! Dang ra ! Dang ra…

 

Tâm đỏ bừng mặt vì xấu hổ, tức giận. Không phải tức giận bạn mà tức giận cha mẹ đã không cho mình đi bộ như mọi người, từ nhà đến trường xa xôi chi cho cam ?

 

Nó muốn khóc song cố ngăn giữ nước mắt lại, nuốt ực xuống trong lúc anh tài xế mở cửa xe cho nó một cách trân trọng. Anh ta lừ mắt, chỏ vào bọn học trò buông sõng ba tiếng :

 

- Đồ mất dạy !

 

Anh ngỡ là mình đã làm vừa lòng tiểu chủ, ai ngờ Tâm cau có thêm lên :

 

- Anh kỳ quá, anh nói làm chi vậy ?

 

Thật tội nghiệp cho Tâm ! Nó bị trêu chọc, ghét bỏ, hành hạ đủ điều chỉ vì có mỗi cái tội không do nó gây ra : con nhà giàu có ! Mà nào Tâm có kiêu hãnh hay làm bộ làm tịch chi đâu ? Lúc nào nó cũng hiền lành, nhũn nhặn đó chứ ? Ngay cả Hoà ban đầu cũng tỏ ra không ưa nó, về sau thấy Tâm như bị cả “thế giới học đường” khai trừ một cách bất công, độc ác nên đâm ái ngại, kết thân với nó.

 

Tâm còn cho Hoà biết rằng cậu nó vẫn chỉ trích bố mẹ nó không biết cách nuôi con, ông nói :

 

- Anh chị cho uống thuốc bổ làm chi, vô ích, có tiền bày đặt. Coi thử lũ con tôi coi, có bổ báu gì đâu, toàn ăn thứ rẻ tiền mà đứa nào cũng mạnh như trâu…

 

- Thiệt không ?  Mày thấy con cậu mày mạnh như trâu không ? (Hoà ngắt lời bạn)

 

- Có, tao thấy tụi nó mạnh lắm. Mày ưng gặp không ? Bữa nào tao dẫn tới chơi ?

 

Đoạn, không cần Hoà phát biểu ý kiến về đề nghị của mình, Tâm thú thật rằng vì uống quá nhiều thuốc bổ, mình không ăn cơm được. Thấy vậy cha mẹ nó đem đi bác sĩ, lại thuốc bổ, lại tiêm làm nó càng khổ thân hơn mà hình dạng thì lúc nào cũng mỏng tanh, gầy nhom như cái que được chuốt kỹ !

 

Tâm làm Hoà phát hoảng lên, gần chóng mặt vì những bữa ăn nhà nó ; nó gọi những bữa ăn đó bằng những cái tên văn vẻ như : ăn điểm tâm, ăn tráng miệng, ăn guýt tê, ăn lót lòng, ăn… khuya…v.v. Mẹ ơi ! (Hoà kêu thầm) nhà mình nói chung và nhà tụi bạn nói riêng – Hoà học lõm mấy tiếng hay ho này đâu trong sách báo mà chưa có dịp nào dùng thử, bây giờ thấy đúng chỗ quá nên dùng liền – chưa bao giờ có chuyện điểm tâm, lót lòng, tráng miệng cả. Ăn là ăn thẳng cánh, ăn thực sự, hễ bữa cơm dọn ra xong thì a lê hấp : cả nhà ngồi tụm lại, tay bát, tay đũa, vèo một nhoáng là xong. Ăn thì ăn no chứ miệng làm sao mà tráng được ? Miệng người ta chớ cái chén, cái tách sao ? Vô lý ! Lại còn chuyện lót lòng : lót cách nào, kia chứ ? Làm sao mà lót lòng cho được ? Một khi thức ăn vào đến dạ dày là tiêu hoá tất, lộn xà ngầu với nhau tất, lót cóc khô gì được đâu ? Đến như điểm tâm, tiếng này nghe đường được một tị, vì nó có vẻ nho nhã, hiềm cái Hoà không hiểu nổi. Đã bảo Hoà không có làm bạn với bút lông mà. Tuy nhiên, Hoà không thấy có gì chướng tai về hai tiếng điểm tâm. Hoà chấp nhận. Còn ăn guýt tê và ăn… khuya thì phải hỏi cho ra lẽ mới được. Tâm vui vẻ giải thích ngay :

 

- Guýt tê là ăn lúc xê xế, cỡ bốn giờ chiều đó, hiểu chưa ?

 

- À, vậy thì tao hiểu rồi. Lâu lâu, vào giờ đó mẹ tao có luộc cho tụi tao nồi khoai lang. Ăn khoai lang có kêu là guýt tê được không ?

 

- Sao lại không ? Muốn ăn gì thì ăn, miễn là ăn vào giờ nào thì kêu thứ tiếng đó, còn ăn gì tuỳ ý mình chớ. Ai cấm mình ? Mày quê quá !

 

- Không phải, tao cứ tưởng là phải ăn ba tê, xúc xích, xăng uýt, cá hộp mới là…

 

Hoà ngừng nói, hai đứa đấm thùm thụp vào lưng nhau, cười ngặt nghẽo. Bỗng, Hoà nghiêm giọng :

 

- Vậy còn “ăn… khuya ?” Người ta chớ muỗi sao mà ăn khuya ? Mày giảng nghe coi ?

 

- Ăn khuya là ba má tao đi coi hát hay đi chơi về khuya đói bụng ăn cháo gà hay bồ câu hầm gì gì đó…

 

Và rồi đột nhiên Tâm nổi giận bất ngờ, giọng gắt gỏng :

 

- Đừng chọc giận tao, sao mày nói muỗi mới ăn khuya ? Khinh cha mẹ tao hả ? Bộ cho cha mẹ tao là muỗi hả ?

 

Hoà nhỏ nhẹ :

 

- Thôi, xin lỗi, xin lỗi ! Tao nói thiệt, tao không biết, tao đâu dám…

 

Tâm nguôi giận, song vẫn không tin, gặng lại :

 

- Bộ nhà mày không khi nào ăn khuya hết, phải không ?

 

- Không bao giờ -- giọng chắc nịch, Hoà xác nhận -- nếu có thì tao đã biết, không hỏi mày làm chi. Tao cứ tưởng muỗi nó vo ve nửa đêm mới đi ăn chớ người ta thì ngủ khò, thức làm chi mà ăn uống ?

 

- Mày ngu quá : muỗi đâu có ăn ? Nó hút máu người ta chớ ?

 

Đó là lần đầu Tâm tỏ ra thông minh hơn bạn nhưng Hoà không chịu thua :

 

- Thì hút máu, mà nó không có ăn, chỉ biết hút thôi thì phải kể là ăn chứ !

 

Tâm tò mò :

 

- Nhà mày mỗi ngày ăn mấy bữa ?

 

- Ba.

 

- Ngày nào cũng vậy hết hả ? Ngon không ?

 

- Ngày nào cũng vậy hết, ngon lắm.

 

- Bữa sáng ăn cái gì ?

 

- Cơm !

 

- Cơm ?

 

- Ừ, cơm nguội chiên.

 

- Sao không ăn bánh mì ? Hay là ăn phở ?

 

- Bày đặt, tốn tiền mà không chắc bụng. (Giọng Hoà như người lớn). Hiểu chưa ?

 

- Sao mày biết không chắc bụng ?

 

- Mẹ tao nói, sao không biết ?

 

Trầm ngâm một giây, Tâm phê :

 

- Vậy mà mày cũng sướng hơn tao.

 

Hoà không cãi lại Tâm. Nó chỉ nghĩ rằng giá nhà Tâm nghèo nghèo một chút, một chút thôi, chớ đừng nghèo quá thì chắc là Tâm sướng hơn. Hoà chỉ khổ cái ăn cơm nguội mỗi sáng, chớ Tâm ấy à, bao nhiêu thứ khổ nữa kia, trời ạ !

 

Vì vậy, Hoà hiểu cái câu tối nghĩa của bạn, không trách móc gì, giá đứa khác nói, nó sẽ mắng ngay cho một câu :

 

- Đồ ngu ! Ăn cơm nguội mà kêu là sướng.

 

Dần dà, Hoà khám phá thêm nhiều nỗi khổ của Tâm hơn. Chẳng hạn một lần đến nhà Hoà chơi, gặp lúc Hoà đang tắm. Tâm đứng nhìn bạn múc dội, múc dội từ đầu xuống chân, nước chảy loang loáng khắp sân. Thấy Tâm, nó chỉ cười khì một cái rồi vẫn tiếp tục múc dội không ngừng. Phải chi ở nhà mà mình làm vậy là má la rồi đó, nào là ướt sân, nào là cảm gió đủ thứ. Tâm buồn bực nghĩ. Nhìn đôi mắt đầy thèm muốn, ước ao của bạn, Hoà biết rằng không bao giờ Tâm được tắm nước lạnh như mình, dù cho trời nóng đến bậc nào đi nữa. Cứ tưởng tượng đến nồi nước luộc của mẹ nó trong phòng kín – dĩ nhiên là trong lúc tức, Tâm nói quá đi, nhân cái nóng bức lên cho bạn dễ dàng thông cảm – là Hoà đủ ngán ngẩm rồi ! Tắm nước nóng ! Trời ơi ! Sao ở đời lại có những chuyện kỳ quái khác thường như vậy không biết : củi than không để nấu cơm, kho cá, củi than ở đâu mà phí phạm, mà dùng vô công chuyện nấu nước tắm, hở trời ?

 

Giữa lúc Hoà vừa cười, vừa rung rung cái đầu tóc ngắn cho nước rụng hết xuống, Tâm nghiêm trang nói :

 

- Cậu tao biểu ánh nắng mặt trời chiếu lên da tốt lắm đó, nó tác dụng sinh ra vitamin D đó, ổng biểu má tao đừng bày đặt tắm xà phòng làm chi vì xà phòng làm mất chất ấy. Vậy mà má tao đâu có nghe ? Tắm kiểu này là đúng cách lắm đó, Hoà ơi !

 

Hoà len lén thở dài một cái : cu cậu vẫn ưa được tắm xà phòng thơm. Bữa nay vì mẹ chưa mua, miếng cũ hết rồi đành phải tắm không chứ nó nào biết kiểu cách chi đâu ?

 

Từ bữa nghe tâm nói, Hoà không thèm ăn cắp xà phòng thơm của em bé nữa. Chẳng biết lời cậu Tâm nói đúng hay sai, có điều được cái lợi là mẹ khỏi rầy. Mẹ Hoà rầy thì… nhức đầu lắm. Mỗi lần bánh xà phòng mòn đi một chút hay dính tóc Hoà (đi hớt tóc về Hoà lấy gội cho thơm một tị mà) là bà kêu lên :

 

- Thằng Hoà thiệt ! (không biết thiệt cái gì) Con trai sao mà ngựa quá ! Ăn cắp xà phòng của em hoài. Mẹ cấm đa, từ này còn tái phạm, mẹ đánh đòn đa !

 

Hoà ức lắm, cãi lại :

 

- Sao mẹ không cấm chị Mai ? Chị Mai xài hoài đó, có sao đâu ? Bộ con không phải con mẹ sao ? Mẹ tiếc chút xà phòng với con sao ?

 

Mẹ Hoà cắt nghĩa :

 

- Chị Mai mày nó dùng xong nó cất vô hộp tử tế, nó không có làm rớt dính đất, không có để dính tóc như mày, nó cũng không làm hao, còn mày…

 

Chị Mai coi bộ đắc chí lắm, chen vô :

 

- Mà con trai cần gì thơm ? Miễn sạch sẽ là được rồi. Nhiều chuyện…

 

Hoà tức lộn ruột lên, gây với chị Mai một chặp. Tới chừng mẹ đòi đánh cả hai, mới thôi.

 

Càng chơi với Tâm, Hoà càng thấy mình sung sướng, những sung sướng nó mặc nhiên tận hưởng mà không hề hay biết, phải nhờ Tâm mới nhận ra.

 

Mới đây nhất, Hoà biết rằng vì nhà giàu, có máy truyền hình, có máy ghi âm, có máy hát, radio hai ba cái (nhà Hoà cũng có một cái radio mà hễ ba đi làm thì đem theo) cho nên mải mê coi, nghe mấy thứ đó, học bài không thuộc, làm bài không thông, chuyên môn ăn trứng ngỗng.

 

- Nhiều khi không phải tại tao, chị Tuyết Mai chỉ ưa mở nhạc, mở đài bất tử, làm mình lo ra…

 

Tâm phàn nàn với bạn. Hoà hỏi :

 

- Mày có phòng riêng mà, tao có phòng riêng thì…

 

- Thì phòng riêng, mà phòng chỉ gần phòng tao, chỉ mở to ong óng, dội vô lỗ tai chớ tưởng…

 

- Sao không nói chỉ tắt đi đặng mà học ? Bộ chỉ không thương mày sao ?

 

- Ai dám lại gần chỉ ? Má tao kia mà tao còn không dám lại gần nữa là…

 

- Kỳ không ? Tại sao vậy ?

 

- Tại sao ? Tại người nào cũng sợ tao tới gần làm nhầu áo chớ tại sao. Hỏi hoài… đâu phải được như mày…

 

- Như tao cái gì ?

 

Giọng bùi ngùi, Tâm nói :

 

- Như mày hễ thấy mẹ hay chị đi đâu về là a đại tới như em bé, chớ như cái gì nữa. Làm bộ hoài, mày không biết chớ ai biết ?

 

Hoà nén một tiếng thở dài thương cảm, an ủi bạn :

 

- Thôi, đừng buồn…

 

Còn đang ngập ngừng không biết nên khuyên bạn cách nào cho có hiệu quả thì Hoà ta chợt nhớ ba mình hay trêu mình cứ lẽo đẽo theo bên mẹ với chị Mai như con gái, liền tiếp :

 

- Mình là con trai, đừng theo đàn bà con gái làm chi, theo ba vui hơn.

 

Tức thì Tâm trừng mắt lên :

 

- Ba tao ? Bộ mày tưởng chuyện chơi sao chớ ? Tao đâu dám lại gần ổng ! Tưởng ba tao cũng như ba mày hả ? Muốn ăn đòn hả ?

 

- Sao kỳ vậy ? Bộ ổng không thương mày sao ? Ổng dữ lắm sao ?

 

Tâm trả lời xuôi xị, câu trả lời không bao giờ Hoà có thể ngờ tới :

 

- Thương chớ ! Mà điều… ổng thương cái cặp da hơn. Suốt ngày tao thấy ba tao ôm khư khư cái cặp da. Có lúc tao muốn làm cái cặp da còn hơn. Hễ rời cái cặp da ra là tới giờ ăn, giờ đi ngủ, đi chơi hay tiếp khách. Ba tao có giờ nào rảnh đâu mà tao dám lại gần ? Tao…

 

Nói xong một hơi, Tâm có vẻ hối song quá muộn, nó ngừng lại đột ngột, nhìn lên chòm cây trước ngõ như có gì đáng chú ý trên đó lắm vậy. Hoà cũng ái ngại quá : càng đi sâu vào tâm tình bạn, càng biết nhiều khúc mắc đáng… buồn hơn ! Trông bộ dạng mơ màng của Tâm, giá lúc khác, Hoà đã trêu :

 

- Mày coi bộ thi sĩ quá !

 

Nhưng Hoà phanh kịp và ngay lúc ấy Tâm chợt quay lại, Hoà thấy bạn mình chớp mắt một cái, hai giọt nước trào ra, lăn dài xuống má.

 

Đêm đó, lần thứ nhất Hoà quì xuống trong bóng tối, nó lặng lẽ cám ơn Trời đã quá thương, quá rộng lượng mà ban cho mình một thiên đường nho nhỏ. Nó có cảm tưởng mình giàu lắm, giàu hơn tất cả bạn bè, dù đôi khi nó thiếu thốn vài thứ vì cha mẹ ít tiền không sắm nổi. Hoà hiểu rằng không sự thiếu thốn nào đáng buồn, đáng sợ, đáng kể bằng sự thiếu thốn Tình Thương. Mà Hoà, Hoà được bao dung, che chở, yêu mến, nó không hề thấy điều quan yếu ấy. Hoà bơi lội, vùng vẫy trong Tình Thương như con cá trong nước vậy ! Hoà cảm thấy rằng rồi đây mình sẽ đủ sức vượt qua mọi khó khăn, trở ngại, thử thách trong đời.

 

Hoà xoay mình, trèo lên giường nằm duỗi thẳng, cười thầm trong bóng tối, yên tâm chờ giấc ngủ, trong khi nhà ngoài mẹ và chị Mai đang cặm cụi vá áo quần.

Chương 2

 

 

Cha Hoà làm tài xế xe vận tải. Ông luôn luôn khoe với mọi người rằng trong đời cầm tay bánh của ông, ông chưa hề cán chết một con chó hay một con gà. Ông hết sức cẩn thận. Quả vậy, ông là tài xế giỏi được chủ xe rất mực quí mến, tin dùng. Ông cưng dưỡng cái xe không khác chi các con ông. Mẹ Hoà thường nửa đùa nửa thật nói rằng không biết con ông với cái xe, ông quí cái nào hơn. Cha Hoà cười xoà, vui vẻ :

 

- Làm sao lại thương cái xe hơn con mình được, nhưng mà chủ người ta đã tin mình, giao xe cho mình, mình phải giữ gìn cẩn thận, khỏi phụ lòng tin cẩn của người ta.

 

Dạo trước xe chạy đường Lục Tỉnh. Mỗi lần về đến nhà, người đầy bụi bặm, mệt phờ, song ông vẫn lục xách tay lôi quà ra cho vợ con rồi mới chịu nằm nghỉ trên cái võng trước hiên.

 

Cha Hoà mua nhiều thứ : chuối khô, cam, ổi, ốc, cua, bánh phồng tôm v.v… thổ sản địa phương có gì, ông mua về thứ ấy. Nằm nghỉ một lát, ông ngồi dậy, ra săm soi cái xe cả đỗi nữa rồi mới đi tắm. Có khi ông rửa xe, có khi chỉ lau qua trước khi đi tắm. Tắm xong, lại lên võng nằm ngâm nga mấy đoạn thơ Lục Vân Tiên :

 

- Khoan khoan ngồi đó chớ ra.

 

Đó là phận gái đây (ta) là phận trai.

 

Tiểu thơ con gái nhà ai ?

 

Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ ?

 

Ông ngừng lại đột ngột, rồi tấm tắc khen :

 

- Đời xưa có khác, người ta giữ gìn ý tứ như vậy thiệt là hay ! Tao ưa như vậy ! Đúng là (lại ngâm) :

 

Trai thời trung hiếu làm đầu.

 

Gái thời tiết hạnh là câu trao mình…

 

Hoà với chị Mai cười khúc khích. Nghe tiếng con cười, người cha chợt nhớ ra quà mình mua về chưa được các con thưởng thức, liền thôi ngâm, giục vợ :

 

- Mẹ nó coi luộc ốc cho trẻ ăn đi !

 

Hay :

 

- Mẹ nó chiên bánh phồng tôm cho trẻ ăn đi !

 

Mẹ Hoà không ngừng tay làm việc, bà đang nấu cơm hay giặt gịa chi đó, bà nói vọng lên :

 

- Ông làm như tụi con ông chết đói tới nơi rồi vậy. Đi đâu mà lật đật ? Ăn uống phải có giờ giấc, chừng mực chớ. Gần tới bữa ăn rồi…

 

Cha Hoà ngắt lời vợ :

 

- Biết rồi, người ta có nói chưa tới giờ cơm đâu ? Mà người ta muốn cho con người ta ăn trước mặt người ta, ăn liền cho nó mát con mắt một chút, có sao không ?

 

- Chẳng có sao hết, trước mặt hay sau lưng gì rồi cũng là ăn, hối hả cái gì ? Ông sợ tôi đem bán, không cho tụi nó ăn chắc ?

 

- Ai sợ ? Người ta đã nói người ta muốn nhìn con người ta ăn… đàn bà lắm chuyện.

 

Thật vậy, cha Hoà có thói quen thích nhìn con ăn. Ông nói rằng nhìn các con ăn, ông ngon mắtlắm, muốn no luôn ! Hễ trong túi rủng rỉnh chút tiền là ông lén vợ chở con đi ăn tiệm liền. Lén, nhưng rồi chỉ một buổi, chậm lắm là một ngày sau, chuyện đổ bể ra. Mẹ Hoà không bằng lòng, bà nói :

 

- Cha con muốn ăn gì, nói, rồi người ta mua làm cho mà ăn, ăn tiệm tốn tiền, mắc mà không ngon.

 

Mai cũng theo phe mẹ, chê ăn tiệm. Chỉ Hoà với em Bé theo phe cha. Rốt cuộc, ông chê đàn bà con gái hà tiện, ưng khổ thân, không biết chuyện !

 

Không biết chuyện ? Đó là ba tiếng ông năng dùng để chỉ những ai mà ông có ý chê. Hà tiện, xấu bụng, gian giảo, ích kỷ v.v… đều là không biết chuyện tất !

 

Từ khi xe chạy ra Trung, ông hay vắng nhà hơn trước. Chừng như để bù vào chỗ thiếu sót đó, mỗi bận về ông đem cho vợ con nhiều quà quí giá hơn : tơ tằm tận Quảng Nam, võng gai ngoài Bình Định, mạch nha của Quảng Ngãi, mực khô ở Nha Trang, nón bài thơ xứ Huế… và ông ở nhà nghỉ cũng lâu hơn. Nhà vui như Tết !

 

*

 

Theo lời mẹ kể thì Hoà được biết cha mình vốn quê ở miền Trung. Ông bà nội hiếm hoi sinh có mình ông thôi. Nhà có nhiều ruộng đất, nhưng cha Hoà không ra tỉnh học, cha Hoà được học qua quít chữ quốc ngữ ở trường làng, còn chữ nho thì nhiều hơn, ông bà nội rước thầy về dạy trong nhà. Không phải ông bà nội hà tiện, mà ông bà nói rằng chữ thánh hiền tốt hơn chữ tụi tây u. Mà cần gì phải học nhiều ? Học, theo quan niệm của ông bà, là để biết đạo làm người, xử thế, chớ không phải để kiếm cơm, hay làm quan.

 

Nối nghiệp nhà, cha Hoà cũng làm ruộng như ông nội. Nhưng phong trào Kháng chiến với những lời kêu gọi đầu tiên vừa hùng hồn vừa thống thiết làm xúc động sâu xa tâm hồn người thanh niên con một, quê mùa và chất phác kia. Người thanh niên hiền lành ấy nhất định ra đi trong sự bằng lòng của cha và rất nhiều nước mắt của mẹ. Anh buông cày, cầm súng, tham dự nhiều trận giao tranh một cách hăng say, tin tưởng. Anh không phải là người được nhồi nhét nhiều kiến thức mới như thanh niên thành phố, anh không quan tâm đến những danh từ lớn. Lòng yêu nước trong anh được bộc lộ một cách tự nhiên, giản dị nhưng không kém nồng nhiệt khi được thức tỉnh, kêu gọi đúng lúc.

 

Đó là lòng yêu nước của một nông dân, bắt nguồn từ luống cày, bó mạ, từ đồng lúa, vườn rau.

 

Họ là những kẻ thực thà, nhút nhát, không hề tính toán đến những điều khác lạ, cao xa, người ta có thể cho rằng suốt đời họ không bao giờ rời được lũy tre, đồng ruộng, nhưng bỗng chốc, cảm thấy mình cần phải chiến đấu, thế là họ lăn mình vào chiến đấu. Giản dị thế thôi.

 

Thỉnh thoảng, cha Hoà ghé về thăm nhà, lại thấy cha vui và mẹ khóc. Tuy chưa biết ai nhiều bằng mẹ anh, anh cũng kết luận rằng “đàn bà rất nhiều nước mắt.”

 

Cuộc Kháng chiến kéo dài, dài hơn anh tưởng, nó kéo anh đi xa lắc, hết còn dịp nào trở về thăm cha mẹ như buổi ban đầu.

 

Chính quyền thân Pháp tại địa phương được tái lập và họ kết tội cha mẹ anh, tịch thu hết gia sản, ruộng vườn. Ông bà già quá rồi, không chịu đựng được nỗi thảm nhục và cũng không còn sức lực để lao tác nuôi thân. Nhiều người thương xót nhưng không dám giúp đỡ và sau cùng, song thân anh lần lượt nằm xuống, không có mặt người con trai độc nhất theo sau linh cữu cũng như vuốt mặt cho, hai điều mà họ hết lòng ao ước.

 

Hay tin dữ, cha Hoà khóc lặng. Từng đêm, từng đêm dài anh băn khoăn tự hỏi mình : “Yêu nước là một tội ư ? Mà tội lây đến cả mẹ cha ư ?” và anh không thể nào tìm được câu giải đáp. Sự việc xảy ra trên sức tưởng tượng của anh. Cha Hoà không mấy tiếc những đất ruộng nay thuộc về tay kẻ khác mà anh xót đau cho cha mẹ, xót đau dai dẳng không nguôi.

 

Nếu ngay lúc đó mà anh được trở về thì anh sẽ chĩa mũi súng vào ngực kẻ đã làm tan nát gia đình anh rồi nhắm mắt bóp cò, rồi anh mở mắt ra nhìn kẻ ấy quằn quại trên vũng máu mới hả lòng căm tức. Anh sẽ không biết thương hại là gì đâu, trời ạ ! Nhưng anh không về được, phải nén lòng chờ. “Ta sẽ về ! Ta sẽ về, tụi bây phải đền tội, rồi coi !” Anh hậm hực giơ quả đấm về phía trước, thì thào trong bóng tối.

 

Song, than ôi ! Đó chỉ là lời doạ suông thôi. Kể từ sau gia biến, anh không bao giờ còn được trở lại gia hương.

 

Trong một trận giao tranh, anh bị thương, bị bắt, bị giam giữ suốt hai năm ròng. Khi được thả ra, anh lạc lõng giữa một đô thị xa lạ và xa hoa đáng sợ : Sài Gòn ! Sài Gòn mà từ thuở bé anh chỉ nghe thoang thoáng như một địa danh xa lạ, không ngờ rằng có ngày mình lại có mặt ở đây. Một thân đau ốm, quanh mình không một ai là thân thuộc họ hàng.

 

May sao, anh gặp ông ngoại của Hoà. Trong con mắt ông thì cha Hoà là hình ảnh của người con trai ông, người con trai đã xả thân vì yêu nước năm nào.

 

Ông đưa anh về nhà, tận tình thuốc men chạy chữa. Mỗi lần nhìn cha Hoà, ông lại mang máng nhớ đến cánh thư cuối cùng của con trai ông, anh viết rằng : Cha hãy coi như không có con, như con không còn trên đời nữa, vì con không biết chắc có ngày về không. Nếu con được trở về thì vui, còn không thì em con sẽ thay con mà phụng dưỡng cha. Con cam tội bất hiếu. Trên đời này có những mối tình lớn, những nghĩa vụ lớn hơn tình nghĩa gia đình. Con không thể nào một mình hoàn tất cùng một lượt nhiều nghĩa vụ. Con mong cha hiểu mà tha tội cho…”

 

Không ! Ông không thể hiểu và cũng chẳng cần tìm hiểu. Ông cảm thấy rằng ông sắp mất con ông, đứa con trai ông chắt chiu từ khi còn tấm bé, một mình ông còm cọm gà trống nuôi hai con – nhưng mẹ Hoà là gái rồi sẽ theo chồng -- từ khi mẹ chúng nằm yên vào lòng đất. Ông không nuôi con cho nước. Tại sao đến lúc con ông trưởng thành thì nước lại cướp mất con ông ? Mặc con ông nói gì thì nói, ông không cần biết, ông chỉ biết một điều ghê gớm : ông sắp mất nó, thế thôi !

 

Quả như ông nơm nớp lo sợ : đó là cánh thư chót mà người con ông có thể gửi về. Sau đó, ông không nhận được chữ nào. Ông nhớ con quay quắt thiết tha nhưng ông ngụy trang lòng nhớ thương sâu đậm đó, phủ nhận niềm mất mát lớn lao đó bằng cách không bao giờ giở cánh thư cũ ra đọc lại, cũng không bao giờ nhắc đến tên con. Nào nó có thương ông mà ông thương nó ?

 

“Con bạc bẽo thì thôi” ông thốt câu trên bằng giọng hờn dỗi, buồn rầu.

 

Rồi tin dữ đến. Ông đón nó một cách trầm tĩnh, thản nhiên đến độ làm cho mẹ Hoà hoảng sợ, cô gái vừa lau nước mắt, vừa nghẹn ngào van xin cha tha thứ cho anh cô vì anh cô đã chết rồi.

 

Ông quay đi, giọng chìm xuống, mơ hồ như từ cõi xa xăm nào vọng lại :

 

- Không, cha có giận nó đâu, cha thương nó lắm… nhưng mà…

 

Đôi vài gầy run run qua lần lụa mỏng, ông che mặt khóc, khóc thảm thiết, khóc tức tưởi, tưởng như bao nhiêu khổ sở, nhớ thương, mong đợi, dồn nén lâu nay tan hoà trong nước mắt ông.

 

Đó là lần đầu mà cũng là lần cuối, mẹ Hoà thấy ông nhắc đến anh mình, tỏ lòng nhớ tiếc anh mình.

 

Ông thu gói tình thương đó lại, kín đáo, lặng lẽ cũng như ông lặng lẽ kín đáo thu thập di vật của người con trai ngắn số cất vào một chỗ, một chỗ sâu kín của lòng ông.

 

*

 

Năm ấy mẹ Hoà mười chín tuổi. Cô từ chối những lời cầu thân của nhiều người vì cô chưa nghĩ đến tình yêu, song có lẽ phần lớn cô do dự bởi ngại nỗi về nhà chồng thì cha già hiu quạnh một mình. Cứ lần lữa đến đâu hay đó. Mỗi bận cha cô bàn đến chuyện chồng con thì cô lại thưa cha hãy thong thả, rằng cô muốn được gần cha ngày nào hay ngày ấy, rằng sớm muộn gì mà cô không phải lấy chồng ?

 

Cô rất cảm tình với người thanh niên nghèo khổ xa lạ mà cha cô đưa về. Từ cảm tình đến tình yêu thật không xa cách mấy, nhưng mỗi lúc nghĩ đến miền Trung xa tít tắp nào đó mà mình sẽ phải đi theo, để cha già còm cọm, thui thủi lẻ loi sớm chiều trong gian nhà vắng lặng thì lửa tình cô tắt biến. Mãi cho đến khi cô thú thật điều lo ngại của mình, thì cha Hoà thổ lộ hết chuyện gia đình và bằng giọng xót xa, anh nói :

 

- Tôi còn về đó làm chi ? Đau lòng quá lắm ! Tôi sẽ lấy quê em làm quê tôi, cha em làm cha tôi…

 

Trầm ngâm một lát, anh tiếp :

 

- Mà dù có tính đến chuyện về cũng còn lâu lắm, chừng nào cha em…

 

Thế là họ thành hôn. Ông ngoại Hoà vui vẻ, vuốt râu chờ bế cháu. Ông chờ có hơi lâu, vì mẹ Hoà chậm sinh, mãi đến ba năm mới có tin mừng.

 

Ông nhắc đi nhắc lại một câu ông đã nói nhiều lần, mỗi lần bế cháu trên tay :

 

- Vậy mà ông cứ lo cháu đợi ông chết rồi mới ra đời chứ !

 

Hết sức mãn nguyện vì rể tốt, cháu ngoan, ông ngoại Hoà nói rằng ông sẵn sàng chờ chết. Và ông mất trong một giấc ngủ yên lành.

 

*

 

Khi cái cớ duy nhất ngăn cản ý định về quê của cha Hoà không còn nữa, thì chiến tranh lại tái diễn đến mức không ngờ. Tái diễn một cách khốc liệt, dữ dội. Riêng đối với cha Hoà thì càng vô lý, khó hiểu. Ông tưởng rằng cởi bỏ ách thống trị, dân tộc mình có thể sống trong sự tương thân…

 

Dù không muốn, gia đình cha Hoà đã mặc nhiên trở thành thị dân và nghề tài xế dù không phải là một nghề ông vừa ý, song ít nhất nó cũng là một nghề đủ nuôi sống gia đình.

 

Như hoa hướng dương luôn luôn quay về hướng mặt trời, cha Hoà cũng vậy, tình quê dào dạt trong lòng ông. Ông thường nhắc đến ước mơ được về quê cầm lại cái cày, cán cuốc. Nhưng điều ao ước tầm thường, nhỏ nhặt đó cũng mịt mùng, xa xôi, cũng thăm thẳm khó đạt, khó với tới như cái hy vọng được thấy hoà bình vãn hồi trên mảnh đất thân yêu.

 

Cha Hoà ngạc nhiên thấy thù hận bây giờ nhạt nhoà hẳn trong trí nhớ, mối thù mà ông từng nghiến răng thề sẽ trả cho bằng được, ngày đêm ôm ấp đợi chờ từng phút từng giờ đó, sao bây giờ tan biến như sương buổi sớm, như khói lam chiều, không để lại dấu vết nào. Thù oán làm chi nữa ? Cha mẹ mình có sống lại được đâu ? Mà chắc gì kẻ gây tội ác được sung sướng ? Chưa biết chừng ruộng đất đó đã đổi chủ cũng nên ? Chao ! Cuộc đời dâu bể…

 

Cha Hoà không mong muốn được làm giàu. Giàu có thì sung sướng chi ? Ông cho rằng dù giàu có đến bao nhiêu đi nữa, người ta vẫn ngủ một đêm bảy hay tám giờ, mỗi lần chỉ mặc một bộ quần áo và ban đêm không thể choán chỗ trên hai chiếc giường. Ông tỏ ý thương hại những người giàu có khư khư khổ sở chắt bóp để có thêm mà không dám tiêu dùng chuyện đáng tiêu, như vậy có sung sướng chi đâu ? Mình làm chủ của cải chớ của cải sao làm chủ được mình ?

 

- Chuyện gì gọi là chuyện đáng tiêu đâu ? Làm sao anh biết ?

 

Mẹ Hoà cười, gặng hỏi. Cha Hoà nghiêm trang :

 

- Sao tôi lại không biết chuyện đáng tiêu ? Như tôi đây này, tôi mà có tiền nhiều thì tôi cất trường học, xây nhà thương, làm những việc có ích…

 

- Nhưng anh thì làm gì có nhiều tiền để làm nổi những chuyện có ích ? Còn nói thí dụ như anh có tiền, biết chừng đâu lúc ấy anh lại đổi tính nghĩ khác cũng nên…

 

- Khác làm sao đâu ?

 

- Nghĩa là anh cũng nghĩ như những người mà anh chê hiện nay đó : khư khư ky cóp kiếm thêm…

 

Cha Hoà kêu lên, vẻ phật ý :

 

- Trời ơi ! Mẹ thằng Hoà ! Mình cho tôi là hạng người gì chớ ? Tôi này, cha thằng Hoà, cha con Mai này mà lại không biết chuyện như vậy hay sao ? Không đời nào !

 

Hai người cười vang lên. Các con cũng cười theo. Chúng vui vì thấy cha mẹ vui.

 

Những lúc vắng nhà lâu, cha Hoà gửi thư về. Ông cũng là tay văn chương có hạng.

 

Ông viết như sau : “… Anh nhớ mình với các con lắm, cho đến nỗi nhiều khi anh muốn từ bỏ quách cái nghề tài xế này đi. Anh biết là mình cũng muốn vậy, song nghĩ lại anh thấy không thể nào ngồi không, chờ mình chạy gạo cho cả nhà được.

 

Mình đáng được sung sướng hơn. Các con cần học hành tới nơi, tới chốn. Chuyện con Mai thôi học tôi buồn lắm đó, tôi không muốn vậy, nhưng bởi mình nghèo, phải chịu thôi. Con Mai nay học may đã khá chưa ? Chừng nào thì ba khỏi đem vải ra cho thợ ? Còn Hoà, con mà đậu tiểu học thì ba sẽ cho con cái xe đạp. Gắng lên ! Con Mai sẽ có máy may. Chịu không ? Còn Bé nữa, ba không quên đứa nào đâu. Kỳ này ba đi xa, khó nhọc nên ba có nhiều tiền hơn.

 

Mưa dữ quá, lại lạnh nữa. May nhờ mẹ con phòng xa bỏ trong xách ba cái áo len chớ không thì phải biết. Mẹ con là người biết chuyện. Ba cảm ơn mẹ con nhiều lắm đó. Chắc vài tuần nữa ba về. Chỉ tại cái xe nó già rồi, hay làm nũng, nằm vạ luôn, thật khó chìu, khó dỗ. Tức cười không ? Ba cũng già mà không làm nũng, cái xe thì trái lại. Đi xa thì dỗ xe, về nhà thì dỗ các con. Coi chừng kẻo mẹ đánh, không có ba, không ai dỗ đâu, nghe không ?

 

Thôi, ba ngừng nơi đây. Thăm các con với mẹ, nghe không…”

 

Buồn cười thay : mẹ con Hoà ít khi có dịp thưởng thức được cái tài văn chương của ông trong khi ông vắng mặt vì một điều giản dị là thư luôn luôn về đến sau người viết ! Mẹ Hoà phàn nàn dữ lắm, nhưng Hoà thì không. Thằng con trai ưng đọc thư cha trước mặt cha : nó có dịp thấy cha đỏ mặt lên ngượng nghịu vì những lời lẽ âu yếm do chính tay mình viết, do ý nghĩ thành thực của mình. Nó làm sao ấy… nó kỳ cục… nó tiểu thuyết, chịu không được.

 

Người cha nhoài tới, giằng lấy lá thư, song Hoà nhanh chân chạy biến ra đường. Khi Hoà trở vô, ông làm bộ giận, kêu lên :

 

- Đưa cái thơ đây, thằng nhỏ !

 

- Ủa, ba gởi cho mẹ với tụi con thì để con đọc chớ, ba gởi làm chi mà không cho con đọc ?

 

Ông chịu thua, xuống giọng :

 

- Thì đọc đi, mà đừng có đọc to, thằng nhỏ rắn mắt !

 

Nhưng thằng nhỏ rắn mắt không đọc nhỏ như lời cha bảo, nó đọc to cốt để trêu cha, sau cùng mẹ nó can thiệp, đòi phết cho mấy roi vào mông, nó mới thôi.

 

Sau những chuyến đi xa và lâu, cha Hoà trở về với rất nhiều quà, có nhiều chuyện kể cho các con nghe và cũng nghỉ ngơi lâu hơn.

 

Nằm trên võng, ông nghêu ngao cất giọng ngâm một đoạn Lục Vân Tiên – vì ông không biết gì khác hơn :

 

- Làm con đâu dám cãi cha,

 

Dẫu cho muôn dặm đường xa cũng đành.

 

Chẳng qua là sự bất (ớ ớ… ớ) bình.

 

Hay vầy (ơ ơ… ơ) tôi chẳng (có) đăng trình làm chi.

 

Lâm nguy chẳng gặp giải (ơ… ơ ơ) nguy,

 

Tiết trăm năm cũng (a a… a) bỏ đi…

 

Thình lình, ông ngồi bật dậy như cái lò xo, gọi mẹ Hoà giật giọng :

 

- Mẹ nó đâu ? Mẹ nó ơi !

 

- Chuyện gì vậy ?

 

- Mình nướng bánh chưa ?

 

- Chưa, chi gấp vậy ?

 

- Thì nướng để kéo mạch nha cho lũ nhỏ ăn chớ chi gấp ? Người ta mua về mà không cho con người ta ăn…

 

Và rồi, ông nói hoài, lằng nhằng dai dẳng cho đến chừng mẹ Hoà phải ngừng công việc khác, bỏ dở đó đi nướng bánh, ông mới bằng lòng.

 

Nằm xuống võng, ông quên béng đoạn tiếp theo. Cũng chẳng hại gì. Ông bắt sang đoạn khác, giọng ông trầm xuống cho hợp với tâm tình người trong truyện :

 

- Đã đành đá nát vàng phai.

 

Đã đành xuống chốn tuyền đài gặp (á á… á) nhau…

 

Ngồi thì tim lụn dầu hao.

 

Hỡi (a a) người trong tượng trầu cau đây này !

 

Cách nhau đã mấy năm chầy.

 

Không ai hơn thiệt cho khuây…

 

Đang nằm trong lòng cha, lim dim mắt, bỗng Bé ngồi lên, vùng vằng :

 

- Con không chịu, con không chịu ba hát cái đó.

 

- Mày quyền thế dữ há ? Ba muốn hát cái nào ba hát chớ, ăn thua gì mày mà không chịu ? Làm trời hả ? Muốn đòn không ?

 

Mai quát em. Người cha vội vàng ngăn :

 

- Thôi, kệ em, con ! (Ông dịu dàng hỏi Bé) Sao con không chịu ? Tại cái đó buồn quá phải không ?

 

- Con không biết (Bé càng phụng phịu) con không ưng ba hát cái đó…

 

- Thôi, ba hát cái hay hơn nghe không ? Ba hát hay lắm chớ không phải thứ hát rên rên như chị Mai với anh Hoà con đâu.

 

Và ông dặng hắng lấy giọng, hát to :

 

- Thanh niên Việt-nam mau bồng súng ra sa trường. Thanh niên Việt-nam không lùi bước trước làn gươm. Tay phất cao lá cờ…

 

- Hay ghê ! Ba hát hay ghê !

 

Bé vỗ tay tán thưởng, nhưng đúng lúc ấy người cha lại quên đoạn tiếp. Ông quên mất cái bài hát mà năm 45, 46 ông thuộc nằm lòng, bài hát đã lôi cuốn ông cùng vô số người trẻ tuổi. Trí nhớ mình tệ thật, ông nghĩ thầm. Bé giục :

 

- Hát đi ba ! Con ưng ba hát cái đó !

 

Để con vừa ý, ông xoay qua điệu cải lương :

 

- Nối ngôi trời sửa trị, Trẫm tước hiệu Minh Vương, ra oai phong bủa khắp bốn phương, rưới nước đức thấm nhuần muôn họ, nhưng mà, Trẫm nghĩ lại Trẫm giận thay cho (ca lớn lên) các loài Tây phiên, chẳng nể, không kiêng, rất…

 

Lại bí. Bé dãy lên, oà khóc. Chị Mai trừng mắt một cái, xông lại bên em :

 

- Đi chỗ khác cho ba nằm. Đừng có làm rộn…

 

- Thôi, Mai ! Con sao có được cái tài ăn hiếp em là nhứt. Để nó nằm với ba. Cha con tao làm gì mặc kệ cha con tao. Mày lo theo mẹ mày đi ! Lôi thôi, tháng tới tao không mua máy may cho đâu.

 

Mai lườm em một cái, doạ :

 

- Còn làm rầy ba, coi chừng đó !

 

Rồi Mai xuống bếp. Tiếng võng lại kẽo kẹt, cha Hoà nằm xuống, trở lại đoạn thơ Lục Vân Tiên dang dở vừa chợt nhớ ra.

 

Cha Hoà như thế đó : cưng con, quí vợ, vui vẻ, hiền lành, tận tâm, chăm việc.

 

Cho đến nỗi bà Năm bán quán vẫn nói với mẹ Hoà :

 

- Mày thiệt là có phước ! Có thằng chồng sao mà tốt nết quá chừng ! Từ hồi về đây tới nay hai năm, tao chưa bán cho nó được một đồng bạc rượu, gói thuốc lá cũng không.

Xem tiếp chương 3 & 4